Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lời Giới Thiệu/ Lời Người Dịch

19 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11416)
Lời Giới Thiệu/ Lời Người Dịch

Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay
BƯỚC SEN
NỮ TU VÀ CƯ SĨ PHẬT GIÁO
CUỘC SỐNG, TÌNH YÊU VÀ THIỀN ĐỊNH
Walking On Lotus Flowers: Buddhist Women Living, Loving and Meditating
Tác Giả: Martine Batchelor - Biên Tập Viên: Gill Farrer-Halls
Việt Dịch: Diệu Ngộ -Mỹ Thanh & Diệu Liên-Lý Thu Linh
Nhà xuất bản Phương Đông 2010

Lời Giới Thiệu


Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không? Có thể tìm được các nữ đạo sư trong Phật giáo truyền thống không?

Là người dạy thiền, và cũng từng là nữ tu sĩ, tôi đã thường được nghe những câu hỏi như thế không biết bao nhiêu lần. Vì thế tôi quyết định soạn một quyển sách dựa trên những kinh nghiệm sống của các phụ nữ đương thời, đễ bạn đọc thấy rằng hành thiền có thể ảnh hưởng đến nhiều cách sống, nhiều hoạt động của chúng ta như thế nào. Thật vậy, tôi đã khám phá được nhiều vị ni, nhiều nữ cư sĩ đức độ trong thời hiện đại.

Từ lúc khởi ý đến khi hoàn thành quyển sách là một cuộc hành trình dài dẵng. Tôi phải tự nhủ rằng mình có thể làm được điều đó và có thể tìm được nguồn tài trợ để điều đó có thể thành hiện thực. Tôi đã viết thư đến hai tổ chức tài trợ lớn, nhưng không có kết quả gì, tôi đành bỏ cuộc. Rồi bỗng nhiên, sau một thời gian dài, cả hai tổ chức đều chấp nhận hỗ trợ, cộng thêm sự hổ trợ của một tổ chức khác nữa. Tôi thật bàng hoàng; vậy là tôi phải thực hiện thôi!

Những chuyến đi từ ngay nơi gần gủi, nơi tôi đã phỏng vấn các phụ nữ Tây phương, cho đến tận những nơi gốc rễ của Phật giáo như ở Đại Hàn, Nhật, Đài Loan và Thái Lan. Tôi vừa ngạc nhiên, vừa phấn chấn với những gì thâu thập được từ bao cảnh đời. Một số phụ nữ tôi đã được biết, và đã liên lạc trước đó, nhưng tôi cũng được gặp thêm rất nhiều người đến nỗi tôi không biết phải chọn lựa ai vào quyển sách nầy. Tôi đã có 40 cuộc phỏng vấn, với tất cả những người phụ nữ thật đặc biệt, nhưng vì giới hạn của quyển sách, tôi chỉ có thể chọn 18 người dựa vào sự quyết định của các cuộc phỏng vấn. Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó, họ là tiếng nói chung cho tất cả.

Khi phỏng vấn các vị nầy, tôi giống như một người sơ cơ, hỏi những câu hỏi đơn giản, thực dụng, phổ thông. Có những cuộc phỏng vấn bằng tiếng Anh, dể thực hiện nhất. Nhưng cũng có nhiều cuộc bằng tiếng Hàn Quốc; hy vọng là công tác dịch thuật của tôi có thể phác hoạ được con người sau những lời nói ấy. Những cuộc khác lại được ai đó dịch từ tiếng Nhật, Trung Hoa hay Thái. Mỗi chương là một câu chuyện, với những lời chỉ dẩn về thiền bằng những lời nói riêng và những chứng nghiệm của riêng từng vị. 

Gặp gở các vị nữ tu và cư sĩ Phật giáo nầy là một quá trình học hỏi mà nó càng phát triển thêm khi tôi thực hiện các cuộc phỏng vấn, rồi dịch thuật, ghi chú, đánh máy, và biên tập. Tôi chưa hề cảm thấy mệt mỏi, chán nản vì các câu chuyện tràn đầy sức sống và trí tuệ; thật là những câu chuyện tuyệt vời. Tôi vẫn tự nghĩ không biết mình có được sự can đảmtín tâm của Sư cô Ani Tenzin Palmo khi phải đối mặt với các cơn bão ở Hy Mã Lập Sơn, hay có được sự bình tâm chấp nhận của Ni Sư Ayya Khema khi đối đầu với căn bịnh ung thư.

Tôi vẫn luôn thán phục Haeju Sunim, người đã nói rằng tất cả chúng ta là Phật, nên cách sống duy nhất là phải thể hiện lòng từ bi và trí tuệ của một vị Phật; không cần phải đợi đến lúc khác, ở một khoá chuyên tu khác hay một kiếp sống khác. Tôi vẫn còn tán dương Sư Bà I Tsao Fashih, người đã cố gắng thuyết phục tôi cầu nguyện được tái sinh vào cõi Tịnh độ. Bà đã nhận thấy tôi không sốt sắng, nhưng vẫn vui vẻ, bao dung, ý nhị đến nỗi khi chia tay bà, tôi có cảm tưởng như chính mình cũng có thể bước trên những cánh hoa sen, và cuộc đời như thế sẽ tuyệt vời làm sao! 

Tôi vẫn còn thấy buồn cười vì sự bình tâm của Maechee Pathomwan đối với con rắn trên đùi, so sánh với sự sợ ma của bà. Tôi kinh ngạc về sự tưởng tượng siêu thực của Yahne Le Toumelin. Tôi cảm động với sự giản đơn của họa sĩ thiền Okbong Sunim, và lòng từ bi của Jonmok Sunim, một nữ tu làm DJ và cũng là một cán bộ xã hội.

Một số họ có những kinh nghiệm giống tôi. Giống như Sư Chân Không, tôi cũng được bảo hãy cầu nguyện để được tái sinh làm người nam; giống như Sư, tôi coi đó là lời khuyên vô nghĩa, dầu người khuyên có vì lòng từ hay người đó có là bậc thánh hay bậc chứng đắc. Nhưng chúng ta đừng quên rằng Đức Phật thật là cấp tiến khi Ngài bảo rằng mọi người đều bình đẳng trong giác ngộ. Quyển sách nầy càng chứng minh thêm quan điểm của Đức Phật khi nó giới thiệu những người phụ nữ đã làm chủ được con đường tâm linh của mình và khi trình bày ở đây một cách tổng quát về các chứng quả trong thiền định.

Khá nhiều sách đã được viết về phụ nữPhật giáo từ cái nhìn của nữ giới, của tâm lý xã hội, tôn giáo, văn hoá hay lịch sữ. Tôi muốn trình bày vấn đề nầy dưới một khía cạnh khác, dưới cái nhìn của các chứng quả trong thiền định, trong cuộc sống hằng ngày. Một vài phụ nữ trong quyển sách nầy đã đi tiên phong trên các diễn dàn ở Tây phương, như là Ni Sư Ayya Khema và bà Christina Feldman. Nhưng tôi muốn hiểu rõ về cách sống thực sự của họ hơn là những ý tưởng của họ; là những người con Phật, họ đã sống mỗi ngày như thế nào? Đạt được một tầng chứng nghiệm nào đó, điều đó có nghĩa gì đối với họ, là những phụ nữ tu theo Phật giáo?

Ở phương Đông, khi tôi nói về đề tài phụ nữPhật giáo hay tăng và ni, các ni cho rằng họ cảm thấy bình đẳng. Myongson Sunim, thí dụ, nói rằng tăng và ni là hai cánh của một con chim -chim cần cả hai cánh mới có thể bay được. Thực vậy, nhìn về các chứng quả của họ, họ đã bình đẳng, đạt được những gì mà người nam hay các tăng đạt trong cùng một hoàn cảnh hay một phương pháp tu. Ngay cả trong các điều kiện có vẻ khắc nghiệt đối với họ, như ở Thái Lan, điều đó cũng không cản trở được Maechee Pathomwang trở thành một nữ tu sĩ, rồi tu tập thực hành để trở thành một vị thầy khả kính.

Tôi cần nói đôi điều về vai trò của ni giới trong Phật giáo. Điều đó thay đổi tuỳ theo điều kiện xã hội, lịch sữ ở mỗi nước, và khó thể nói hết ở đây. Tôi xin tóm tắt vài điểm: Ni giới ở Hàn quốc bình đẳng khoảng 90% với tăng, ở Nhật 60 phần trăm, Đài Loan 85 phần trăm, Thái 15 phần trăm, Tây Tạng 45 phần trăm. Thí dụ, ni giới ở Hàn quốc thọ đại giới với 338 giới luật, trong khi ở Thái, các ni hầu như không thọ đại giới, với chỉ tám hay mười giới cấm.

Không ngạc nhiên gì khi ni giới ở Hàn quốc được ủng hộ hơn, có nhiều cơ hội được học hành, huấn luyện. Nhưng điều gây ấn tượng và tạo lòng tin trong tôi, là dầu các điều kiện có khó khăn, tệ hại đến thế nào, các vị nữ tu và cư sĩ Phật giáo mà tôi đã gặp đều có thể chuyển hoá hoàn cảnh, sống một cuộc đời tràn đầy ý nghĩa, trở thành các vị thầy bằng chính sức lực của mình, như Maechee Pathomwan ở Thái Lan hay Pang Kwihi, một tiểu thuyết gia bị bại liệt ở Hàn quốc.

Tôi đã cố gắng thu thập nhiều truyền thống Phật giáo để giới thiệu khá nhiều phương pháp thiền, và tôi đã tìm được khá nhiều phương pháp và tiềm năng. Con đường Phật giáo nhiều ngã; ai cũng có thể tìm được điều gì đó cho mình trong Phật giáo. Tuy nhiên, có một mẫu số chung xuyên suốt quyển sách đó là chánh niệm, là một sự tỉnh thức đầy sáng tạo, mà nếu biết áp dụng, biết vung trồng sẽ giúp ta nhìn sự việc rõ ràng hơn, chuyển đổi được con người ta, cách ta sống.

Cuộc đời của những người phụ nữ nầy gửi đến chúng ta một thông điệp rằng hãy tin ở chính mình, tin ở khả năng của mình, dầu ta là nam hay nữ, vị trí xã hội cao hay thấp, mạnh khoẻ hay khuyết tật. Thông điệp đó là chúng ta không thể làm gì hơn là hãy cố hết sức mình. Những phụ nữ nầy đã làm tôi cười, tôi khóc và nghĩ ngợi; họ khiến tôi hiểu hơn, rộng vòng tay hơn với những khả năng bất tận mà cuộc đời có thể mang đến trên con đường tâm linh. Tôi mong rằng họ cũng mang đến cuộc đời của bạn những điều tương tự.

 

Lời Người Dịch


Theo lời giới thiệu của tác giả, bà Martine Batchelor, quyển Bước Sen (Walking On Lotus), là những câu chuyện về các nữ tu và cư sĩ Phật giáo. Quyển sách có 18 chương là 18 câu chuyện của nhiều số phận khác nhau, nhưng có cùng một mẫu số chung là tất cả đã tìm được hướng đi trong cuộc đời mình, đó là Phật đạo, là con đường đưa đến giải thoát, giác ngộ. Mặc dầu chúng tathể không tu theo phương pháp của các nữ tu sĩ nầy, hoặc giả chúng tathể không đồng quan niệm với họ về giới luật hay gì đi nữa, chúng ta cũng sẽ tìm thấy ở đây những tấm gương tu học sáng ngời, đáng để người đọc noi theo. Trong bản Việt dịch, chúng tôi quyết định không dịch chương thứ 17, vì đề tài có thể chưa thích hợp với đọc giả Việt Nam, mong bạn đọc thông cảm.

Đây là quyển sách dịch chung sức đầu tiên của tôi và người cháu, Diệu Ngộ - Mỹ Thanh. Diệu Ngộ - Mỹ Thanh và tôi cũng có những duyên nghiệp đặc biệt. Lúc 6, 7 tuổi, cháu đã theo tôi xuống Saigon trọ học. Tôi như người mẹ trẻ của cháu. Rồi cô cháu xa nhau. Đến khi hội ngộ ở xứ người, thì cháu đã không nhận ra cô. Không biết bằng cách nào, cháu và cô đều tìm được con đường đến với Phật pháp, mỗi người theo cách riêng của mình. Chỉ biết là gần đây lên các website hay đọc các tạp chí Phật giáo, tôi đã ngạc nhiên thấy tên cháu ở cuối một số bài dịch. Ngạc nhiên vì cứ ngỡ là vốn tiếng Việt của cháu rất hạn chế, nói chi đến danh từ Phật học. Thật là duyên lành. Quyển sách dịch nầy thành tựu là kết quả của duyên lành đó. Mong rằng nó sẽ là hạt giống giúp chúng tôi dù sinh ra ở đâu, cũng luôn được biết đến Phật pháp. Mong là nó góp được chút sức vào công việc giới thiệu với bạn đọc, các đạo hữu, những tấm gương tu học sáng ngời

Dỉ nhiên, với sự hiểu biết hạn chế về Phật pháp, cũng như một số đề tài chuyên môn mà một số tác giả đã viết - như chương 11, về hội họa - chúng tôi không tránh khỏi nhiều sơ sót. Mong nhận được sự chỉ giáo, hướng dẩn của các bậc tôn sư, thiện hữu tri thức.

Quyển sách nầy được ấn tống với sự hùn phước của nhiều đạo hữu, bạn bè, thân quyến. Chúng con kính cẩn kê đầu đảnh lễ tạ ơn chư Phật đã tạo điều kiện, phước duyên để Phật sự nầy được viên thành.

Diệu Liên - Lý Thu Linh
4/2005


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15483)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 22898)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 13953)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12900)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 54956)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9062)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14345)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14084)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14123)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13812)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36154)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19784)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18096)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19102)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19045)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20193)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17547)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31384)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15849)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14895)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14613)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46044)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35796)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 20951)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21473)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23250)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34172)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19405)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18822)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22834)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20086)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18271)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19738)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19453)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33303)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34309)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54360)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37552)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21045)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17798)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63456)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17280)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49480)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27262)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20171)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22896)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18815)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16253)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17797)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20852)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17272)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14389)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16785)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16286)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15926)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17388)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21858)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15009)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13409)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14301)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15306)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14909)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12588)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13276)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27316)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12425)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13115)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14405)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16131)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12327)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15311)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12807)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12131)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13113)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21509)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11205)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22574)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14941)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14861)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46045)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22322)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14381)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12521)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18799)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14631)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43708)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56810)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13759)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47344)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13568)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14466)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28878)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33172)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38252)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15330)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31100)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12418)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40214)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43249)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46474)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant