Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 12: Phấn Đấu Đến Giải Thoát

19 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11252)
Chương 12: Phấn Đấu Đến Giải Thoát

Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay
BƯỚC SEN
NỮ TU VÀ CƯ SĨ PHẬT GIÁO
CUỘC SỐNG, TÌNH YÊU VÀ THIỀN ĐỊNH
Walking On Lotus Flowers: Buddhist Women Living, Loving and Meditating
Tác Giả: Martine Batchelor - Biên Tập Viên: Gill Farrer-Halls
Việt Dịch: Diệu Ngộ -Mỹ Thanh & Diệu Liên-Lý Thu Linh
Nhà xuất bản Phương Đông 2010

PHẦN III: CUỘC SỐNG ĐẦY SÁNG TẠO.

Chương 12: Phấn Đấu Đến Giải Thoát

Pang Kwihi

 

Pang Kwihi, là một nhà văn Phật giáo Đại Hàn. Bà có một khuôn mặt đẹp, đầy diễn cảm, nhưng thân dưới bị liệt, nên phải ngồi xe lăn. Bà là một tiểu thuyết gia, một nhà viết kịch, một giảng sư Phật giáo nổi tiếng. Thời trẻ, bà đã ao ước được trở thành bác sĩ, nhưng những năm 1970, các trường đại học không tiếp nhận sinh viên khuyết tật, vì thế bà không được nhận vào học ở trường Y. Bà đổi sang ghi danh học ở Đại Học Phật giáo Tongguk, ban đầu không phải vì lòng yêu thích Phật giáo mà vì chỉ có đại học nầy chấp nhận cho bà theo học.

 

ĐƯƠNG ĐẦU VỚI TRỞ NGẠI

Tôi bắt đầu học Phật mà không trọn niềm tin. Tôi không được tiếp xúc với Phật giáo vì không thể đi đến các chùa, do đó không thể được gặp quý tăng ni, dầu mẹ tôi là một Phật tử thuần thành, thường xuyên thăm viếng các chùa chiền. Khi bắt đầu đến với Phật giáo, tôi nhận ra đây là một triết lý rất hữu dụng, từ đó tôi trở nên gắn bó với nó.

Tôi cố gắng áp dụng các giáo lý của Đức Phật vào cuộc sống đời thường. Tôi thường gặp nhiều khó khăn trong đời sống, những lúc đó tôi nghĩ đến những lời dạy nào của Đức Phật có thể giúp tôi đương đầu với chúng. Thí dụ trong Bát chánh đạo, tôi thấy có chánh ngữ. Tại sao là chánh ngữ? Vì khi gặp gở, tiếp xúc với người khác, tôi hiểu tại sao cần phải nói lời chân thật, cách nói cũng phải thích hợp, vì người nghe sẽ tiếp nhận, phản ứng với những điều ta nói.

Ngoài ra chánh tinh tấn, triết lý về con đường trung đạo, chân lý về ba độc (tham, sân, si); tất cả những điều nầy cũng rất quan trọng, cần phải nhớ để áp dụng, gìn giữ trong cuộc sống hằng ngày. Những lời dạy của Đức Phật đã thành kim chỉ nam cho cuộc đời tôi. Khi tôi có những hành động thế nầy, thế nọ, tôi suy gẫm lại tại sao Đức Phật có những lời dạy khác nhau cho nhiều căn cơ khác nhau. 

LÒNG TIN MÙ QUÁNG

Các Phật tử Đại Hàn thường có quan niệm rằng nếu ai bị bệnh hoạn, tật nguyền hay bị nhiều trở ngại, thì đó là do những ác nghiệp trong các kiếp quá khứ. Điều đó làm chúng tôi cảm thấy như đó là lỗi mình khi phải mang thân hình khuyết tật; do đó có nhiều người khuyết tật không thích Phật giáo. Nói chung, người khuyết tật ở Đại Hàn không thiện cảm với Phật giáolý thuyết nghiệp quả.

Trong khi nếu chúng ta càng có khó khăn, hay bị khuyết tật, chúng ta càng cần đến tôn giáo, có ý hướng về tôn giáo. Nếu chỉ có 40 phần trăm người bình thường tin theo một tôn giáo nào đó, thì có đến 80 phần trăm người khuyết tật có tín ngưỡng. Trong số đó, 4 phần trăm theo đạo Phật, 88 phần trăm theo Tin Lành và số còn lại theo Thiên Chúa. Ngay cả số 4 phần trăm theo đạo Phật, cũng chưa hẳn họ là người Phật tử thuần thành mà chỉ vì họ sinh trong gia đình theo đạo Phật.

Tuy nhiên tôi lại nhìn vấn đề dưới khía cạnh khác. Vào thời Đức Phật còn tại thế, trong xã hội Ấn Độ đã có tư tưởng về luân hồi tái sinhnghiệp quả từ tiền kiếp. Tư tưởng đó mạnh mẽ vô cùng, nó đã ăn sâu vào tâm trí mọi người và được lưu truyền cho đến ngày nay. Tư tưởng nầy không phải do Đức Phật đề ra, nó đã có mặt trong nền văn hoá Ấn Độ, do đó người Phật tử chỉ thuận theo để được thông cảmchấp nhận đối với xã hội đó. Các học giả cũng công nhận điều nầy.

Đức Phật không hề nhấn mạnh về việc trả quả, rằng trong kiếp nầy chúng ta phải trả quả cho các ác nghiệp trong tiền kiếp. Ngài không quá quan tâm đến sắc thâný nghĩa của nó; đúng ra Đức Phật đã dạy chúng ta cần phải tu tập dầu thân thể ta có bị thế nào, mà không nên quá quan tâm đến nó.

Trong các bài giảng của mình, tôi thường tìm kiếm các câu chuyện, các lời dạy trong tạng kinh của Phật giáo, liên quan đến người khuyết tật. Một trong mười vị đại đệ tử của Đức Phật, có ngài Anayuli bị mù hai mắt Ngài bị mất thị giác không phải vì nghiệp quả xấu của đời trước, mà vì Ngài đêm ngày thực hành Phật pháp không ngơi nghỉ, nên sinh ra bệnh mắt. Đức Phật bảo rằng Anayuli đã đạt được con mắt trí tue-dù Ngài không thể nhìn thấy với đôi mắt thường, Ngài có thể thấy bằng đôi mắt tâm, Ngài đã đạt được sức mạnh đó nhờ sự tu hành tinh tấn. Đức Phật đã hết lời khen ngợi Anayuli, và Ngài đã trở thành một trong những vị đệ tử nổi tiếng nhất của Đức Phật.

Vào thời Đức Phật, các đệ tử Phật thường đi khất thực và may y áo bằng những mảnh vải rách. Anayuli không nhìn thấy để xỏ kim, nên Đức Phật đã đến giúp đỡ ông. Qua đó, ta thấy Đức Phật rất quan tâm, giúp đỡ người khuyết tật, và trong các kinh điển của Phật có nhiều thí dụ tương tự như thế. Tôi nghĩ có ngày tôi sẽ sưu tầm chúng để làm thành sách.

ĐIỀU GÌ LÀ SỰ BẤT HẠNH NHẤT?

Năm 1988, sau thế vận hội Olympic ở Seoul, một Olympic dành riêng cho người khuyết tật đã được tổ chức. Người ta nhận ra rằng người khuyết tật cũng có các nhu cầu, nên quan tâm đến các phúc lợi của họ hơn. Tôi bắt đầu có những bài thuyết pháp cho nhiều nhóm người khuyết tật. Tôi cũng nói về các vấn đề an sinh xã hội Phật giáo cho những ai quan tâm, vì tôi đã từng làm luận án về đề tài nầy.

Tôi muốn cho người khuyết tật hiểu đúng hơn về luân hồinghiệp quả, cố gắng giới thiệu Đức Phậtgiáo lý của Ngài sao cho họ thấy hữu ích hầu phát triển lòng tin của họ.

Đức Phật đã lang thang khắp nơi vì những nỗi đau khổ của chúng sanhước nguyện tìm ra phương cách đoạn diệt khổ đau của Ngài. Đức Phật nhận thấy vẫn còn điều gì đó chưa hoàn mãn, nên Ngài đã bỏ cả thế giới, để trở thành một vị tu sĩ khất thực. Tôi rất ngưỡng mộ điều đó ở Ngài. Ngài đã có tất cả -tiền bạc, uy quyền, tài năng- không thiếu thứ gì trong cuộc sống vật chất. Tuy nhiên chính vấn đề tâm linh mới khiến Ngài suy tư, bắt đầu với cái chết của mẹ Ngài. Tôi nhận thấy điều nầy rất thuyết phục, đó là câu chuyện rất gần gủi với chúng ta. Ngày nay, cũng có bao người giàu sang, tài giỏi mà vẫn khổ đau; và cũng có những người đau khổ như chúng tôi vì nghèo khó, và khả năng hạn chế. Thật ra, điều gì là nỗi bất hạnh lớn lao nhất? Tôi vẫn thường suy gẫm về vấn đề nầy. Phật giáo có rất nhiều thứ để ban tặng cho chúng taPhật giáo cho ta một lối thoát, với rất nhiều phương pháp thực tập để đoạn diệt được tận gốc rể của phiền não, khổ đau.

Một trong những nỗi đau khổ lớn nhất là sự xung đột. Dầu ta có giàu bao nhiêu, có tích lủy bao nhiêu của cải, tất cả những thứ nầy không thể giúp ta giải tỏa khổ đau. Có thể nói, chính sự giàu sang khiến cho ta càng xa rời hạnh phúc hơn Thực sự, lý do nào khiến ta đau khổ? Nếu ta học hỏi Phật pháp, và biết áp dụng chúng, ta sẽ nhận thấy rằng chân hạnh phúc có thể được vun trồng, và điều đó giúp ta có thể bằng lòng với cuộc sống hơn.

THIỀN KHÔNG CÓ NGHĨA LÀ BẤT ĐỘNG

Thiền quán không chỉ là ngồi yên một chỗ. Người khuyết tật có trở ngại khi ngồi Thiền cũng như khi lạy Phật. Trong Thiên Chúa giáo không có hình thức đặc biệt nào nơi thân khi cầu nguyện, chỉ cần cầu nguyện, nhưng trong Phật giáo chúng ta phải bái lạy hay ngồi Thiền trong những tư thế nhất định. Những hình thức lễ bái nầy gây trở ngại cho người khuyết tật, và là rào cản giữa người khuyết tật và thế giới tâm linh. Chúng ta cần tìm trong Phật giáo các phương cách để việc hành Thiền cũng như các nghi lễ khác có thể áp dụng cho mọi người.

Điều thiết yếu là chúng ta phải trở về với những điều căn bản trong cuộc đời Đức Phật và những lời giáo huấn nguyên thuỷ của Ngài. Không cần một hình thức đặc biệt nào, ai cũng có thể đọc vài dòng kinh mỗi sáng để không quên những lời giáo huấn, để áp dụng chúng trong ngày. Thí dụ, hôm nay tôi sẽ thực hành chánh niệm để không nói những lời vô tâm, những câu vô ý. Ngay cả trong những hoàn cảnh khiến tôi cảm thấy muốn nói lời không chánh niệm, tôi cũng sẽ cố gắng kiềm chế mình, nhắc nhở mình nhẫn chịu.

Nếu mỗi sáng chúng ta rời nhà với tâm niệm đó, thì dù có gặp phải người khó chịu, chúng ta vẫn có thể làm chủ tâm, giữ cho tâm được an tịnh, mà không gây đau khổ cho người. Đó là chúng ta nỗ lực áp dụng Phật pháp vào cuộc sống. Nếu chúng ta có thể giữ được năm giới cũng đã là đầy đủ. Ngay cả như mỗi tháng chúng ta chỉ cần giữ được một giới, thì chắc chắn là hành động của chúng ta sẽ được sửa đổi nhanh chóng.

CHÚNG TA ĐỀU BÌNH ĐẰNG

Tôi viết kịch bản cho đài phát thanh, các tham luận hay truyện ngắn cho các tạp chí của nguời khuyết tật hoặc tạp chí Phật giáo và một quyển sách mỗi năm. Sách của tôi không chuyên đề, tôi quan tâm đến văn chương hơn. Khi suy gẫm về cuộc đời, ý nghĩa và những khó khăn của nó, tôi lại liên kết với văn chương. Tôi đã viết khoảng mười đầu sách phần lớn là tiểu thuyết, nhưng tôi chỉ viết về những đề tài liên quan đến Phật giáo hay nguời khuyết tật.

Tôi đã viết một tiểu thuyết tựa là Rahula, nổi tiếng và được nhiều người đọc. Rahula là con của Đức Phật và tên của ông có nghĩa là “khiếm khuyết”. Trong quyển sách này, tôi đã nghiên cứu xem điều gì cản trở, trói buộc con nguời trong cuộc sống của họ và điều gì có thể giải phóng họ. Họ đã phản ứng thế nào khi bị trói buộc và khi được giải thoát? Con nguời bị trói buộc rồi được giải thoát, rồi bị trói buộc trở lại; tôi triển khai sự chuyển biến này trong sách của tôi.

Có nhiều nhà văn là nguời khuyết tật, không phải vì họ có nhiều tài viết lách, nhưng đó là một trong những số ít việc họ có thể làm được. Có những người phải ngồi hay nằm suốt ngày, có người không thể đi đâu cả, nhưng họ có thể viết và diễn tả những gì trong tâm và trí của họ. Tôi đã lập Hội Các Nhà Văn Khuyết Tật để họ được nhiều người biết đến và để tìm nhà xuất bản cho các tác phẩm của họ. Chúng tôi cũng hợp tác xuất bản một tạp chí văn chương.

Tôi làm tất cả những việc này vì tôi thích, nhưng cũng vì thật đáng buồn rằng thái độ của người Đại Hàn đối với người khuyết tật không thay đổi. Mức sống đã cao lên, người dân đã khá giả hơn, đôi khi họ cũng giúp tiền cho nguời khuyết tật. Nhưng như thế vẫn chưa đủ; chỉ khi nào họ nhìn người khuyết tật như một con nguời bình đẳng, đó mới thật sự là an sinh. Điều quan trọng là chúng ta phải thay đổi thái độsuy nghĩ đối với người khuyết tật, và phần lớn công việc của tôi là cố gắng làm cho người dân Hàn Quốc chấp nhận người khuyết tật.

BỀ NGOÀI KHÔNG QUAN TRỌNG

Tôi được xem một chương trình trên TV về những nguời có các dị dạng trên khuôn mặt của họ. Họ có thể đi đứng, nói, nghe và mọi thứ khác hoạt động bình thường. Tuy nhiên chỉ vì khuôn mặt họ khác với người bình thường, họ không thể hoà đồng trong xã hội. Ở trường họ bị chế nhạo, vì thế họ không thể đến trường; ở công sở họ không được chấp nhận và bị làm khó dễ. Khi nghe điều này, tôi cảm thấy rất buồn. Điều đó làm tôi suy nghĩ vì sao cơ thể và bề ngoài của chúng ta quá quan trọng trong xã hội. Đó là lý do tại sao những lời dạy của Đức Phật cần phải đuợc nhiều người biết đến vì Đức Phật cho rằng bề ngoài không quan trọng. Điều quan trọng là cái tâm và tư tưởng bên trong chúng ta.

Điều quan trọng là ta cần giúp nguời khác trở nên cởi mở chấp nhận những cái khác biệt và ít phân biệt đối xử hơn. Nếu không rất nhiều đau khổ sẽ được tạo ra chỉ vì nước da, khuôn mặt hay thân thể của nguời này khác với nguời kia. Chính Đức Phật đã nói:”Đừng sanh tâm phân biệt”. Khi chúng ta gặp một nguời chưa quen biết, chúng ta thường nhìn ngừơi ấy với tâm phân biệt, nhưng không cần phải làm thế; tất cả chúng sanh đều bình đẳng.

Tôi luôn cố gắng thực hành niềm tin này. Dĩ nhiên đôi khi tôi cũng tự hỏi và phán đoán:”Không biết người này có học nhiều hay không?” Khi tôi bắt gặp mình có những tư tưởng như vậy, tôi lại nhắc nhở mình và thay đổi những suy nghĩ phân biệt như thế ngay lập tức.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21687)
Cho luôn cho mượn cho là Tồn sinh cốt yếu như hà hình dung?
(Xem: 20387)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22272)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18730)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 26967)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18669)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 19901)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 38030)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20097)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28268)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46274)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15397)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65595)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13705)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18589)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15519)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14553)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18683)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12605)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17623)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25426)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38671)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17666)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11216)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18571)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17381)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13185)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13296)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17509)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24275)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12345)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13783)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 12968)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12872)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14143)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14605)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21073)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22577)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 29948)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13848)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18213)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 17031)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12604)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30701)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22769)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14606)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 12975)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12724)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12491)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 13035)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16296)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15172)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23810)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16158)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 28950)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20265)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15542)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37198)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 44999)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 36843)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant