Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 15: Đôi Mắt Là Viên Ngọc Quý

19 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11642)
Chương 15: Đôi Mắt Là Viên Ngọc Quý

Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay
BƯỚC SEN
NỮ TU VÀ CƯ SĨ PHẬT GIÁO
CUỘC SỐNG, TÌNH YÊU VÀ THIỀN ĐỊNH
Walking On Lotus Flowers: Buddhist Women Living, Loving and Meditating
Tác Giả: Martine Batchelor - Biên Tập Viên: Gill Farrer-Halls
Việt Dịch: Diệu Ngộ -Mỹ Thanh & Diệu Liên-Lý Thu Linh
Nhà xuất bản Phương Đông 2010

PHẦN IV: HÀN GẮN THẾ GIỚI

Chương 15: Đôi Mắt Là Viên Ngọc Quý

Ni Sư Chân Không

 

Chân Không, một ni sư Phật giáo Việt Nam, hết lòngsự nghiệp chuyển hoá xã hội. Hơn ba thập kỷ, Sư đã hợp tác chặt chẽ với Thiền sư Thích Nhất HạnhViệt Nam cũng như ở làng Hồng bên Pháp Lúc nào Sư cũng tìm cách giải quyết những khó khăn và tán thán niềm vui trong cuộc sống vì người khác. Làng Hồng thường vang lên giọng hát thanh thót của Sư, và phong phú hơn vì sự có mặt đầy an nhiên tự tại của Sư.


HÃY DỪNG LẠI VÀ QUÁN SÁT

Ở nhà tôi khuyên bạn nên bỏ ít nhất năm phút vào buổi sáng chỉ để dừng lại. Thiền Phật giáo chia ra làm hai phần: dừng lại và quán sát. Dừng lại là samathaquán sátvipassana.

Chỉ cần năm phút cho những người rất bận rộn và cảm thấy mình không có thời gian để ngồi thiền. Bạn có thể thực hành ít nhất năm phút, trước khi đi làm: theo dõi hơi thở, thầm nhủ, ‘Thở vào, tôi lắng dịu thân tâm, thở ra, tôi mỉm cười.’ Hoặc bạn có thể chú tâm vào một hình ảnh được Thầy [Thích Nhất Hạnh] minh họa: ‘Thở vào, tôi thấy tôi là một đoá hoa; thở ra tôi thấy mình tươi mát’. Vào buổi chiều, lúc ăn bạn có thể dành thời gian để dừng lại và theo dõi ba hơi thở trước khi ăn.

Phần thứ hai của thiền Phật giáoquán sát. Nếu bạn tỉnh thức suốt trong ngày, thân tâm bạn sẽ không rơi vào cái bẫy của những hoạt động bất thiện. Buổi tối rất quan trọng vì bạn có thể trở nên chánh niệm về tất cả những hoạt động bạn đã làm trong ngày.

Mặc dù bạn đã cố gắng hành động một cách có chánh niệm, điều đó rất dễ quên. Vào buổi tối bạn có thể suy ngẫm về các động cơ hành động của mình. Có thể bạn được mời trở thành chủ tịch của một hội đoàn nào đó để giúp người hoạn nạn và bạn rất phấn khởi về điều đó. Khi quán sát lại, bạn sẽ ngạc nhiên để nhận ra rằng bạn không quan tâm mấy về các nạn nhân bằng việc có một vị trí quan trọng.Vì thế bạn phải quan sát sâu sắc để thấy rõ những ý nghĩ, động cơ, và chủ đích của bạn tốt hơn. Như thế, bạn sẽ không bị danh lợi, tiền tài hay tiếng tăm lôi cuốn duới cái vỏ bọc là sự quan tâmxã hội.

HƠI THỞ LÀ CHỐN NƯƠNG TỰA

Đức Phật thực hành việc thở trong tỉnh thức cho đến khi Ngài nhập diệt. Sau khi giác ngộ, Đức Phật thực hành chánh niệm trong hơi thở để sống nhập thế gian mà không bị vướng mắc vào các hoạt động của thế gian. Chúng ta thường nghĩ khi một người trở thành Phật, thì sẽ thường hằng. Nhưng trở thành một vị Phật cũng là vô thường, vì thế quả vị Phật của chúng ta cần luôn được vung bồi. Nếu quá tự mãn về sự chứng ngộ của mình, chúng ta có thể sa lầy. Người đã tu tập phải luôn tiếp tục tu tập.

Đức Phật dạy rằng dù thân ta ở nơi nầy, tâm của ta có thể ở rất xa. Hơi thở là sợi dây kết nối thân và tâm. Bất cứ một thiền sinh nào khi mới bắt đầu đều phải học 16 cách thở tĩnh thức mà đức Phật đã dạy trong Kinh Quán Niệm Hơi Thở (Anapanasati Sutra). Thầy tôi, Thích Nhất Hạnh, đã tóm lược 16 bài tập nầy trong những bài thơ ngắn như sau: ‘Trong – Ngoài – Sâu lắng - Chậm rãi, tĩnh lặng - thư giản - mỉm cười – buông thả, giây phút hiện tại – giây phút tuyệt vời.’

Nghe thì dễ quá, như là cho trẻ con, nhưng kể cả người đã thực hành 50 năm, cũng vẫn phải tiếp tục thực hành, nhất là khi họ lo âu, giận dữ hay không an lạc. Không phải lúc nào chúng ta cũng có thể an nhiên, tự tại, vì thế ta phải luôn trở về với hơi thở - khi ngồi trên xe lửa, trên máy bay, ngay cả trong một cuộc họp quan trọng, vì không phải lúc nào chúng ta cũng có thể đến thiền đường để thực tập.

Hơi thở của chúng tanơi nương tựa vững chắc nhất. Khi trở về với hơi thở, ta có thể tách mình ra khỏi những phiền não. Thí dụ, trong một cuộc thảo luận ở một buổi họp, ta có thể tách mình khỏi cái miệng, khỏi đôi tai. Chúng ta thở một cách có ý thức bốn hay năm lần để chắc chắn rằng tâm đang có mặt với hơi thở vào ra.

Sau đó, chúng ta có thể chuyển thành bình tĩnh, thư giãn, bình tĩnh, thư giãn. Hoặc ta có thể cảm nhận hơi thở của mình chậm hay sâu hơn. Rồi ta sẽ thấy bình an. Đó là vì không khí làm cho các tế bào ở phổi ta dịu xuống, rồi khi hơi thở sâu hơn, theo máu đi khắp nơi, làm cho mọi tế bào trong thân bình lặng. Hít vào và thư giãn. Thư giãn tất cả các dây thần kinh, làm cho các tế bào lắng dịu. Mỉm cườithở ra, buông xả mọi lo âu; vì thế hãy bình tĩnh, thư giãn, mỉm cười và buông xã.

Khi cườì, chúng ta buông thả tất cả những căng thẳng nơi các bắp thịt. Ta không chỉ mỉm cười trên mặt, ta còn mỉm cười với tất cả mọi tế bào trong thân. Mỗi tế bào đều mỉm cười, mỉm cười và buông thả. Khi đã cảm thấy bình tĩnh, thư thái, ta có thể trở về với giây phút hiện tại. Ta chỉ có thể là một vị Phật trong giây phút hiện tại; từ một ngạ quỷ, ta có thể chuyển hóa mình thành một vị Phật.

Không có sự khác biệt giữa bên trong và bên ngoài. Khi bạn ra ngoài với cảm giác tức giận, hãy trở về với hơi thở: vào, ra, trầm tĩnh, thư giãn, mỉm cười, buông thả. Khi bạn cảm thấy nỗi sân hận quá mãnh liệt, và với nhiều người ở xung quanh bạn không thể giải toả nó, bạn có thể đi vào phòng vệ sinh hay nhà tắm để thiền hành. Trước hết hãy dừng lại, tự trấn tĩnh mình, rồi quán sát để nhìn rõ vấn đề, để tìm giải pháp nào có thể khắc phục được vấn đềchuyển hoá tình trạng tiêu cực thành một tình trạng tốt hơn.

Quán sát không phải là suy đoán hay vận dụng trí óc. Nó có nghĩa là thử đặt mình vào địa vị của người kia trong trường hợp đó. Cố cảm nhận được những trở ngại từ quan điểm của người. Dựa vào đó, bạn có thể hiểu và chấp nhận người kia. Nếu cần bàn luận về điều gì hoặc làm cho người kia thông hiểu, bạn có thể làm được cũng dựa trên cơ bản đó. Mỗi khía cạnh của việc bạn làm sẽ trở nên dễ chấp nhận đối với người, một khi bạn đã đặt mình vào hoàn cảnh của họ.

SỐNG VỚI NIỀM VUI VÀ AN LẠC

Nhìn thấy người khác được hạnh phúc là niềm vui lớn nhất trong cuộc sống tâm linh của tôi. Tôi muốn cống hiến điều gì đó cho hạnh phúc của người. Hạt giống muốn chia sẻ hạnh phúc với người trong tôi rất mãnh liệt. Tôi muốn mang mọi người sang bờ bên kia.

Tôi cố gắng giữ chánh niệm càng nhiều càng tốt khi đi, khi ngồi, khi ăn. Tôi không nhắm tới một kết quả đặc biệt nào. Tất cả những hạt giống lành của chủ đích tôi là ở đó. Khi tôi thanh tịnh, trong sạch, tất cả mọi hạt giống tốt trong tiềm thức của tôi, như sự cởi mở, lòng tự nguyện giúp đỡ người, sẽ tự nẩy mầm.

Mục đích của tôi là đạt được niềm vui, an lạcthanh tịnh, sống một cách sâu sắc, và làm mới lại cuộc sống trong từng giây phút. Khi ở bên cạnh ai đó, tôi cố gắng luôn có mặt, tươi cười, vui vẻ. Khi đến bưu điện để mua tem, tôi cố gắng mỉm cười, tử tế, chánh niệm hết sức mình với người làm việc ở đó. Trong mỗi bước chân, tôi không có mục đích nào khác ngoài việc làm cho mỗi bước đi đầy chánh niệm, và khi làm được như thế, niềm uớc muốn lớn lao của tôi là mang hạnh phúc đến cho nguời khác tự động phát sinh.

Tôi cố gắng hết sức để thực tập mà không có lòng kỳ vọng. Khi tôi thực tập lòng không kỳ vọng, người ta có thể nghĩ rằng tôi chẳng làm gì hết, chỉ trú trong trạng thái an lạc, hạnh phúc, thật ra tôi rất năng động, đầy tinh thần trách nhiệm. Nếu suy nghĩ quá nhiều về điều nầy, tôi có thể trở nên bất an. Nhưng khi tôi thực tập không kỳ vọng, niềm vui và an lạc trong từng bước, cố gắng tươi mát, mỉm cười, làm mới lại chính mình từng giây phút, thì khi gặp ai đó tôi có thể hoàn toàn có mặt bên họ.

Thời sinh viên, tôi thích làm việc với những người nghèo trong các xóm lao động ở Saigon. Chương trình học ở trường được sắp xếp để sinh viên không có nhiều bài thi trong năm, nhưng lúc cuối năm tôi phải hoàn toàn thuộc lòng 3000 trang về khoa sinh vật và ký sinh vật. Trong năm học, tôi bỏ thời gian với những người nghèo trong các khu ổ chuột, đến lúc thì tôi chỉ còn hai tháng trước khi thi. Tôi tự nhủ phải ráng học thật chăm để không làm buồn lòng cha tôi. Trong hai tháng, mỗi ngày tôi học từ 60 –100 trang. Tôi thích học như thế và tôi học đi học lại mỗi trang một cách có hệ thống. Trong hai tháng, tôi học hết 3000 trang. Vấn đề là ở chỗ biết sắp xếp, nhưng sau khi sắp xếp xong bạn có thể thực tập không kỳ vọng.

CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRÊN THẾ GIAN

Tham gia công tác xã hội luôn là một phần trong đời sống của tôi. Lúc đầu, tôi không biết chi về Phật pháp, dù tôi được sanh ra trong một gia đình rất rộng rãi, thích giúp đỡ người nghèo. Khi còn trẻ tôi muốn học một cái gì đó để có khả năng giúp đỡ người nghèo một cách rộng rãì hơn. Dần dần tôi bắt đầu học về Phật giáo và những lời dạy của Đức Phật làm tôi rất cảm kích.

Tôi muốn sử dụng những lời dạy đó để tạo nên công bằng xã hội, nhưng các vị sư mà tôi biết lúc ấy không đồng ý với tôi. Họ nói rằng tôi cần phải giác ngộ trước. Chỉ khi nào tôi giác ngộ, tôi mới có thể giúp đỡ mọi người. Nhiều vị sư quá bảo thủ đến độ cho rằng làm thân người nữ là một trở ngại; họ khuyên tôi nên tu tập để được tái sinh làm người nam. Rồi sau đó, nhiều kiếp nữa tôi mới có thể trở thành Phật.

Tôi nghĩ là tôi không cần có thân người nam, tôi không cần trở thành Phật, tôi chỉ cần sử dụng một số lời dạy của Đức Phật để mang công bằng xã hội đến cho thế gian nầy. Sau nhiều năm tìm kiếm, tôi được gặp thầy Thích Nhất Hạnh. Thầy nói chỉ cần làm một việc, nhưng nếu ta làm với chánh niệm, ta có thể giác ngộ. Thầy kể cho tôi nghe chuyện một vị sư chỉ thực hành bằng cách may đồ, nhưng may với chánh niệm, trở về với mỗi hơi thở, hoàn toàn chú tâm vào công việc; sau sáu năm, vị sư nầy giác ngộ. Tương tự như thế, có một vị thầy chỉ giã gạo và một vị khác nữa đã giác ngộ khi nấu ăn.

Tôi quyết định là tôi có thể giác ngộ khi là một cán sự xã hội. Tôi không cần trở thành người nam, và trải qua nhiều kiếp để trở thành Phật. Tôi có thể giúp người nghèo, làm giảm nỗi khổ đau của họ, dần dần họ trở thành một phần của con đường đạo của tôi.

CHƯA TỪNG NÓI LỜI NÀO

Người ta gán cho tôi nhiều danh hiệu – ‘cán sự xã hội’, ‘sư cô’, ‘hành giả’– nhưng chúng chỉ là tên gọi. Một cán sự xã hội cần phải là một người thực hành chánh niệm tinh tấn. Nếu người cán sự xã hội làm việc với chánh niệm, với sự hiểu biết sâu sắc, công việc họ làm sẽ trở nên tuyệt vời, giống như tác phẩm của một nghệ sĩ. Tên gọi chỉ là tạm bợ, những nhãn hiệu ngẫu nhiên. Tôi chỉ là tôi.

Sau 45 năm thuyết pháp, Đức Phật tuyên bố: ‘Ta chưa từng nói lời nào’. Đức Phật muốn nhắn nhủ rằng Ngài chỉ sử dụng ngôn từ như chiếc bè để đưa con người từ bến bờ khổ đau sang bến bờ giác ngộ, nhưng sau khi đã sang được bên kia bờ rồi, ta không nên bám víu một cách cứng ngắc vào chiếc bè, là những lời dạy, những giáo pháp.

Khi tôi được biết đến Phật pháp lần đầu tiên vào những năm 1950, tôi muốn trở thành một ni cô, một người từ bỏ tất cả - việc làm, danh lợi, vinh quang, vân vân - để sống trọn vẹn cho người khác với tấm lòng từ bi, thông cảm. Danh hiệu ‘ni cô’ đối với tôi thật cao quý. Nhưng sau đó tôi đã gặp một số ni không xứng với hình ảnh tôi đã phác họa, vì vậy tôi quyết định trở thành ni cô không màng hình thức. Nghĩa là tôi vẫn để tóc, không cạo đầu trong nhiều năm, nhưng vẫn tu tập như một người ni. Gần đây, vào năm 1988, tôi quyết định trở thành một ni cô thật sự, thọ giới với thầy Thích Nhất Hạnh ở đỉnh Linh Sơn, Ấn Độ.

ĐÔI MẮT LÀ NHỮNG VIÊN NGỌC QUÝ

Tôi luôn cố gắng giúp đỡ các gia đình Việt Nam gặp mâu thuẫn. Có khi là người cha ghét người mẹ và ngược lại. Con cái đau khổ, hoặc gây gổ với cha chúng vì bậc cha mẹ không tôn trọng lẫn nhau. Tôi cố gắng giúp những gia đình nầy giải quyết mâu thuẫn để họ có thể sống hoà hợp.

Là một giảng sư tôi đã chuyển hoá được khá nhiều gia đình, nhiều người trong số đó sau nầy muốn giúp tôi trong công việc tôi làm, chính họ cũng trở thành các cán sự xã hội. Có người đã thành lập những cộng đồng riêng ở Châu Âu, Châu Úc, và Châu Mỹ để giúp các trẻ em đói nghèo ở Việt Nam. Vì vậy bây giờ tôi không phải cống hiến tất cả thời gian của mình để trực tiếp giúp đỡ trẻ em nghèo, thay vào đó tôi làm việc với những người tôi có thể chuyển đổi, để rồi họ trở lại giúp tôi trong công việc chuyển đổi xã hội.

Với nhiều gia đình, tôi phải vờ dạy con cái giáo pháp để có thể gần gủi với người lớn. Khi tôi trao đổi với con cái, cha mẹ cũng thấy xúc động sâu xa, và rồi họ cũng chuyển đổi theo.

Tôi thích giảng dạy giáo pháp mà không sử dụng những từ ngữ to lớn, nhất là đối với trẻ em. Tôi có thể nói, ‘Hôm nay cô có món quà cho tất cả các cháu. Không phải thuốc, không phải thức ăn. Các cháu có biết là đôi mắt của mình là những viên ngọc quý không? Khi các cháu mở mắt, các cháu được thấy mẹ, thấy cha và bầu trời trong xanh. Các cháu có thể thấy tất cả các hình dáng, tất cả màu sắc. Các cháu có viếng thăm trường dành cho người mù ở kế bên không? Họ không thể thấy, còn các cháu thì có những viên ngọc quý.

‘Các cháu còn có một món quà quý hơn nữa. Hãy nhìn mẹ kìa. Mẹ thật hiền, luôn chăm sóc các con thật chu đáo. Hãy biết sự có mặt của mẹ là quý nhường bao, vì một ngày nào đó có lẽ sẽ quá muộn. Hãy nhớ điều đó.’

Bằng cách nầy tôi đã dạy cho họ biết trân trọng lẫn nhau.

LẮNG NGHE

Gia đình đầu tiên mà tôi giúp đỡ, người con gái than phiền là cha cô rất khó chịu. Cứ khoảng 3 giờ, mỗi sáng, ông đều thức dậy, chơi đàn ghi-ta. Không ai có thể ngủ được. Tiếng đàn của ông làm phiền cả gia đình. Tôi đến thăm họ và trong một bữa ăn tôi lắng nghe người cha và các con bày tỏ sự khó chịu của họ.

Tôi hiểu rằng khi người cha dậy vào lúc 3 giờ sáng để chơi đàn ghi-ta, đó là vì ông nhớ nhà. Đối với ông, chơi đàn ghi-ta là để gắn bó với cố hương, cái nền văn hoá sâu thẳm Việt Nam mà đứa con gái lớn lên ở phương Tây, không thể nào hiểu. Đối với ông, đàn ghi-ta không phải là âm nhạc, mà là quê hương - một người em đang bệnh mà đói nghèo, một người anh lâm vòng tù tôi, và nhiều thứ nữa mà ông không thể bày tỏ bằng cách nào khác.

Con gái của ông nói tiếng Anh và lớn lên như bao cô gái Úc bình thường khác. Cô không biết gì về Việt Nam và điều nầy làm cho ông càng buồn giận. Ông không biết làm sao giải thích cho cô hiểu, vì thế ông chơi đàn. Ông còn đập phá đồ đạc để bày tỏ sự tức giận của mình. Khi tôi kể chuyện nầy với Thầy, Thầy khuyên hai cha con nên có nhiều thời gian bên nhau, bớt bận rộn để nói chuyện và lắng nghe nhau, để chia sẽ khổ đau của nhau.

Tôi xếp đặt cho hai cha con tham gia giúp đỡ những người nghèo khóViệt Nam và công việc nầy đã giúp cả gia đình. Lúc đầu, vì đứa con gái sống ở phương Tây không hiểu được cái khổ ở Việt Nam, nên cô bất cần. Nhưng khi bắt đầu giúp đỡ một số người trong dòng họ, cả gia đình đã bắt đầu lắng nghe người cha.

Rồi tôi giải thích với người cha: ‘Con gái ông đi làm, cô rất mệt mỏi. Khi về nhà thì đã kiệt sức, cô cần được nghỉ ngơi. Ông có thể giúp con thư giãn chứ?’ Bằng cách nầy, cả gia đình tập lắng nghe, tôn trọng lẫn nhau.

LỄ HỘIVUI CHƠI

Tôi sử dụng âm nhạc và hát ca như một phần của sự thực tập. Âm nhạc là một nghệ thuật, nó có thể làm rung động lòng người sâu xa. Tôi thường được nhắc nhở rằng tu sĩ không nên ca hát, nhưng ở tất cả chùa Phật giáo đều có xướng tụng. Tụng kinhâm nhạc tâm linh. Một bản nhạc thể hiện vấn đề tâm linh có thể tưới tẩm hạt giống tâm linh cho người. Tôi không phân biệt giữa âm nhạctụng kinh. Chỉ cần chúng sâu sắc, thanh cao, làm rung động lòng người là đủ. Thực tập thiền nhạc có nghĩa là bạn hát với tất cả tâm trí. Tôi hát với đôi mắt, với âm thanh, với cả sự hiện hữu của mình.

Chúng tôi có rất nhiều lễ hội ở Làng Mai, để tán thán cuộc sống. Có lễ hội quýt. Khi một nhóm 20 đứa trẻ, cùng ăn 20 quả quýt, quán sát quả quýt, tận hưởng cái thú khi lột vỏ, ngửi mùi quýt, và nếm vị của quýt, đó thật sự là một sự ăn mừng. Hoàn toàn khác biệt với việc ăn quýt với sự thờ ơ. Chúng tôi có nhiều lễ hội giống như thế.

lễ hội, chúng tôi làm mới lại những dây liên hệ với gốc rễ của mình, và người dự lễ đến để cảm nhận, hiểu rõ hơn giá trị của nền văn hoá của mình. 

CHÂN KHÔNG

Pháp danh của tôi, Chân Không, nghĩa là ‘cái không thực sự’. Trong Phật giáo chữ “không” được dịch từ tiếng Sankrit sunyata có nghĩa ‘vắng bóng một cái ngã riêng biệt’. Đây không phải là một từ tiêu cực, tuyệt vọng. Đây là sự tán thán về các mối liên kết nội tại, của sự tương tức. Nó có nghĩa là không có gì có thể hiện hữu riêng lẻ, rằng tất cả các pháp đều liên hệ một cách chặt chẽ với nhau.

Tôi biết là tôi phải luôn tu tập để nhớ rằng tôi không có một tự ngã riêng biệt, mà mang bao kỳ diệu của vũ trụ, bao gồm lòng rộng lượng của ông bà, cha mẹ, bao thiện hữu tri thức, các vị thầy đã giúp đỡ, hỗ trợ tôi trên con đường đạo. Chúng ta ‘những hiện hữu liên kết’, do đó chúng ta không có một cá tính tách biệt khỏi mối liên kết ấy.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15549)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 22985)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14023)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12945)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55075)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9127)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14408)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14145)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14174)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13869)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36269)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19853)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18149)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19174)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19097)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20267)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17613)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31504)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15902)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14961)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14655)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46145)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35892)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21015)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21572)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23364)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34345)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19461)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18918)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22907)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20152)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18320)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19816)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19510)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33381)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34442)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54471)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37667)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21108)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17858)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63604)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17352)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49618)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27381)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20247)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22996)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18878)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16310)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17892)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20924)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17335)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14449)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16839)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16356)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15984)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17451)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21952)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15087)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13478)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14349)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15363)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14960)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12674)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13327)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27369)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12485)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13169)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14454)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16195)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12376)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15378)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12850)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12178)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13179)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21609)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11267)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22682)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15040)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14920)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46170)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22410)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14540)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12602)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18884)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14710)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43835)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56929)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13816)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47448)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13640)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14551)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28977)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33271)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38335)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15383)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31192)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12509)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40361)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43385)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46620)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant