Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mùa Xuân Của Đời Tôi

21 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11413)
Mùa Xuân Của Đời Tôi

MÙA XUÂN CỦA ĐỜI TÔI

KOBAYASHI ISSA (1763-1827) THƠ VÀ ĐỜI
Thiên Hương Chu Kim Hải soạn dịch


Kobayashi Yatarõ được tôn sùng khắp hoàn cầu với cái tên Issa, có nghĩa là Một Tách Trà. Issa sanh năm 1763 làng Kashiwabara trong nông trại quận Nagano trung tâm Nhật Bản bây giờ. Núi non bao bọc vùng nông thôn Shinano vĩnh viễn gắng liền với tên của ông, cũng là vùng núi non phương Bắc trong Hồi Ký “Con Đường Hẹp Đi Sâu vào Miền Bắc “ của Bashõ Matsũ.

Nhưng cuộc đời bất hạnh của Issa cho ta ấn tượng một cuộc đời không may với sức chịu đựng âm thầm nhẫn nại nổi bật hơn cảnh sắc nên thơ hữu tình nơi ông chào đời. Cuộc đời mồ côi của ông luôn luôn bao phủ tang tóc. Từ khi còn quá nhỏ để nhận thức được những ngược đãi bất công đổ xuống đầu do tâm cay độc của người đời còn đáng sợ hơn những bão táp tuyết giá của thiên nhiên. Từ hai tuổi mất mẹ khiến đời ông là một hành trình đi đi lại lại, những chuyến di chuyểnquanh quẩn không ngừng từ nhà bà nội trở về nhà với cha nhưng nơi đó cũng không phải là nhà của mình mà chỉ là nơi dừng để nhận tất cả sự hành hạ thù ghét vô cớ mà một đứa trẻ có thể hiểu được tại sao. Ở nhà bị hành hạ quá sức phải lên chùa tá túc ngủ nhờ, nhưng lại phải quay về nhà làm ruộng khi người cha cần giúp đỡ. Chùa là nơi nương tựa khi bị ruồng rẫy, sau này khi ra khỏi gia đình thì nay ở nhờ nhàbạn vài tháng bạn kia vaì tuần, đôi khi ở nhờ cả học trò, bất cứ đâu quá khứ bà mẹ ghẻ đáng ghê sợ như trong truyện cổ tích luôn luôn ám ảnh suốt thời gian lang thang không nơi cư trú. Vì thế Issa tự cho mình là Issa ăn mày.

Nhưng thơ của ông bộc lộ một tâm từ bi yêu thương thấu hiểu cái kiếp nhỏ nhoi yếu đuối của những con côn trùng không đủ sức tự bảo vệ như đời ông khi còn thơ ấu.

Hãy bay đi, bươm bướm ơi ! 
bụi nhân gian ta nghe phủ 

chĩu trên thân xác ta rồi ! 

Fly, butterfly !
I feel the dust of this world

weighting my body 

Tại Nhật Bản tất cả trẻ con trong trường đều được học thơ của Issa về thú vật và côn trùng, hầu hết ai cũng có thể ngâm một vài bài thơ của ông. Làm thơ không những bộc lộ những ẩn ức đau khổ sâu xa mà còn là một phần cảm nhận của tâm linh thấu đáo lẽ nhân quả vô thường. Ông viết với tất cả tâm hiến dâng, sáng tác hơn hai mươi ngàn bài thơ hài cú, hàng trăm đoản ca và nhiều dòng hài văn là văn suôi.

Dưới bóng những tàng cây 
nơi này ta với bướm 

nhân quả cũng là đây.

Under shady trees,
sharing space with a butterfly-

this, too, is karma 

Issa không bao giờ nói nhiều về nghiệp quả, mặc dầu qua trong thơ ông chỉ nhẹ nhàng nhắc tới như một ngẫu nhiên như tự biết mình đã gieo những hạt giống xấu từ nhiều kiếp trước.

Mới đầy hai tuổi thì mất me, cha phải gửi đến bà nội nuôi dưỡng. Khi bắt đầu đi học, bà nội đưa đến một nhà thơ hài cú địa phương là Shimpo. Đến khi Issa bẩy tuổi người cha tái giá, mười tuổi phải quay về ở với cha vì dì ghẻ sanh một trai cần người giúp đỡ. Không ai biết sự thật ra sao, nhưng những năm sau đó quần áo ông “luôn luôn sũng nước tiểu của em trai”, “bị đánh đập hàng trăm lần một ngày” (đó là lời ông ghi lại của). Bất cứ đứa bé khóc vì lý do gì Issa đều bị tội và bị đánh đập, rồi sự học hành gián đoạn vì phải ra đồng làm việc. Có khi ông phải chạy lên chùa ẩn náu để tránh những trậïn đòn phũ phàng dáng xuống thân hình ốm yếu thiếu ăn thiếu ngủ. Ở chùa Mỹsen, nhiều khi ông khóc suốt không hiểu được tại sao lại phải chịu những trận đòn như vậy, nhiều lần ông nhắm mắt nghe đau đớn ê ẩm cả thân thể nghĩ đến cái chết có lẽ dễ dàng hơn là ngày mai đối diện với những gì không biết trước. Ẩn lánh nơi chùa trong hòan cảnh như vậy chắc chắn ảnh hưởng sâu đậm đời đứa con trai đang lớn .

Khi Issa được mười ba tuổi bà nội ông mất một tình thương che chở cuối cùng cũng không tồn tại lâu hơn trong đời. Ông mất nơi nương tựa tinh thần. Những cay nghiệt càng dáng xuống nặng nề hơn, để làm dịu bớt căm thù trong gia đình, người cha gửi thi sĩ trẻ Issa đến học tập với một nhà văn học ở Edo (Tokyo). Ông sao chép các bản văn để trả chi phí ăn và ở, nhưng Issa không thể nào quen được với lối sống viết thuê và bó mình vào một chỗ đứng an phận. Ông biến vào thành phố náo nhiệt, khoảng thời gian đó ông không ghi lại gì cả. Cũng có thể ông làm thơ ký cho một chùa Phật giáo dựa theo bài thơ như sau: 

Thu bao nhiêu là tiền 
các vị tăng thông minh 

dùng những cành mẫu đơn 

So much money made
by clever temple priests

using peonies

Tuy thế Issa đã sống những năm ở Edo không nhà và đói rét .

Đến năm 1880, trong xã hội của nhóm thi sĩ hài cú học trò của Chikua bắt đầu biết đến tên Issa. Chikua là người đã theo “truyền thống Bashõ”tức am tường sự chân chất, lối viết thẳng sâu vào chất lượng thiền. Hàng trăm năm trước, Bashõ là một thượng thủ nâng cao hài cú từ một thể loại của những người trí thức mơ mộng trở nên một nghệ thuật cao tột trong thiền. Bashõ tán thành đường lối thi ca (kado) thay thế cho giá trị đang lên của giới phú thương và cũng theo con Đường Tao Nhã (fuga no michi), Bashõ cho đó là “ một sợi chỉ độc nhất may đời ông với nghệ thuật”. Bashõ không bị bó buộc bởi “luật tôn giáo hay tập quán dân gian” nhưng qua hài cú và hài văn ông đã xóa tan những năm tháng phiền muộn để “ theo bước chân của những bậc thầy của ” thi ca thiền và thi ca cổ điển Trung Hoa”. Bashõ luôn luôn mang theo bên mình những bản văn của Trang Tử từ đó nguồn tâm linh thiền phát khởi trong thi ca theo thể mono no aware, một cảm nhận làm tăng vẻ đẹp trực nhận trong chốc lát là sabi một thứ tâm linh đơn độc, một trạng thái trực nhận nỗi cô đơn trong thiền.Chikua cũng theo cảm nhận sống động hài hước của Trang Tử cũng phản chiếu trong nhiều thi văn của Bashõ.

Giá trị của mono no aware và sabi cũng hiện rõ trong khắp các bài thi ca của Issa. Những bài hài cú đầu của ông mang âm hưởng sâu xa Bashõ, mặc dù vậy đôi khi quay về than thân trách phận. Issa cũng như Bashõ đi học trường thi ca với bậc đại thi sĩ theo thiền sư Saigỹ, người đem đạo vị chân lý thiền vào “thi ca tự nhiên” Nhật Bản. Lời độc nhất của Issa nổi bật chỉ sau những năm thực tập hằng ngàyhấp thụ sâu xa giáo lý Phật giáo cùng thi ca cổ điển.

Đầu năm 1792, ở tuổi hai mươi chín, tự hứa noi theo con Đường Thi Ca. Ông bỏ cái tên Yatarõ và “bắt đầu một năm mới một tên mới” là Issa và sống đời ẩn dật mười năm. Cũng thời gian này thi sĩ đã thực hiện hành trình thám hiểm Nhật Bản từ mũi phía Nam đến các đảo phía Đông và Tây biển Nhật Bản. Thi sĩ đi theo mô hình “Con Đường Hẹp đi sâu vào miền Bắc” của Bashõ, Issa du hành không để giải trí hay để tìm điểm du lịch cho thế giới của ông, mà để đi tìm chính mình. “Issa ăn mày” sanh ra biết chắc chắnthi ca không thể là con đường giải thoát. Ông tin rằng một phần của con đường đó là “chỉ quán”, trạng thái thiền địnhtri giác hoàn toàn hòa nhập giữa thể và tâm, cái ta và đối tượng, không có gì là vĩnh cửuvĩnh cửuvô thường; chỉ có giây phút hiện hữuthực chất.

Trong thi ca cổ điển Nhật Bản hoa anh đào nở có ẩn ý tượng trưng nhiều hơn cái tướng đẹp của bông hoa nở vì đặc tính ngắn ngủi khi hoa mãn khai là dáng dấp tối thượng của thể mono no aware, trạng thái nở chỉ nhất thời nên vẻ đẹp trong trắng nhẹ nhàng càng có tính cách cao quí, cánh hoa mở ra dưới nắng xuân ấm hay dưới mưa phùn ngày xuân rồi buông rơì từng cánh bay lất phất nhẹ theo gió, hoa đến và hoa đi thanh thoát nhẹ nhàng không vấn vương. Hoa chợt hiện rồi hoa chợt mất. Đó là tất cả hình ảnh tượng trưng của vô thường mà biết bao nhiêu giấy mực viết thành những hài cú cuả Basho và Issa. 

Tất cả những bài thơ Nhật Bản về anh đào nở thường thường biểu lộ giáng tiếp dấu vết bất hạnh, ngay khi hoa nở đã biết hoa sẽ tàn. Chỉ đang sống đây thôi là có thể tán tụng vẻ đẹp khi đó. Hoa nở nhắc rằng đời sống ngắn ngủi của vạn vật và chính con người cũng trong vòng vô thường ấy mà thôi.

Chỉ đang sống đây thôi ! 
diệu kỳ thay trong bóng 

hoa anh đào nở rồi! 

Just being alive !
-miraculous to be in

cherry blossom shadows !

 *

Haya sabissi (cô đơn đã hiện diện)”. Issa đã nói vậy. Đã có cô đơn trong ngay phút đầu tiên khi hạt giống vừa trổ mầm. Chết và sống đã có mặt trong hạt anh đào, chết và sống đã có trong mầm gieo buổi sáng rực rỡ vinh quang, chết và sống có mặt khắp nơi trong không gianthời gian thi sĩ lang thang. Nhà thiền có câu “ Sống y như thể ta đã chết” hạt mầm của chết và sống là một .

Đơn côi vốn đã từng mầm 
mầm gieo từng hạt 

vào vườn triều nhân 

Loneliness already
planted with each seed in

Morning glory bed

 *

Hài cú như chú ý quan sát đời sống chân that và bình thường, Issa là bậc thầy phơi bầy khía cạnh không thể chối bỏ được cái tầm thường đó, không hiểu sao điệu vận thơ của ông luôn luôn truyền cảm hơn là lời nói diễn tả.

Tất cả là giản đơn , 
như chẳng còn gì hơn 

nặng ướt sương mùa xuân

Simply for all this,
as if there were nothing else 

heavy wet spring frost

Những câu thơ không gượng ép, vì tài ba của Issa là điển hình đơn giản : “Tất cả đơn giản”, không có chỗ cho phong cảnh chi tiết. Cuộc đời đau khổ côi cút của chính mình Issa cũng cho là đơn giản như sương mùa xuân ướt át đâu có khác gì hơn. Thơ Issa không phức tạp nên lộ rõ đơn giản tuyệt đối dù là ông ngầm nhận sự hiện hữu nằm trong vô thường của con người và của chính mình . 

 *

Theo âm lịch mùa xuân là dấu hiệu cuối đông bắt đầu một năm mới, vì thế ngày trước Bashõ đã gọi mùa xuân là mùa cấy bắt đầu. Issa viết về mùa xuân như sau :

Trong không Có lẽ lúc này là lúc thi sĩ thoải mái tận hưởng hương xuân nên con rùa kia cũng hân hoan với trăng xuân. 

Êm đềm tịnh dưới trăng xuân 
cả con rùa cũng 

hân hoan mùa này

Under such a calm
spring moon, even the tortoise

crows in this season !

Còn lời nào tả được đêm xuân ngắm ánh trăng chiếu tự trên cao ẩn hiện trên sườn đồi. 

Như tự trên trời
Sườn đồi ẩn hiện

Trăng xuân rạng ngời 

As if from the gods,
spring moonlight illuminates

the hillside thief

Còn giây phút nhẹ nhàng bình an nào hơn sự bình an vào thơi gian Issa hạ bút viết bài hài cú sau đây 

Ngồi đây trong đại sảnh đường 
không gian tịch tĩnh 

sương xuân lờ mờ 

In hazy spring mist,
sitting inside the great hall,

not a hint of sound 

Đề tài thơ chứng tỏ trạng thái ẩn hiện tâm tính thay đổi luôn luôn và gần như lập đi lập lại một giọng điệu buồn thảm ẩn dấu một đứa trẻ bị bạc đãi. Bài thơ sau đây hồi tưởng lại thời sáu tuổi hay bị trẻ con trong làng trêu chọc chúng hát :

Ai biết thằng mồ côi 
đứng một mình cửa chòi 

nhai ngón tay bụng đói 

Everyone knows the motherless boy
he stands alone in the door

chewing the thumb from hunger

Tự mình lại viết lại chính mình thời gian ngây thơ đói khổ cô đơn không dùng những lê thê tả chi tiết mà chỉ là những chữ tả hình đủ thẩm thấu hoàn cảnh một đứa trẻ đói đến nỗi phải nhai ngón tay khiến người đọc không khỏi ngậm ngùi thương cảm. 

Để tránh những trận đòn, lại thường hay trốn trong đống củi vườn sau khuất trong góc tối, có lẽ khi ấy dáng vẻ thật khốn khổ cô đơn thật đáng thương. Mất mẹ nên ông nghĩ con chim sẻ cũng mất mẹ khốn khổ như mình và đem lòng thương con chim muốn chim có bạn nên tha thiết gọi chim đến chơi. Không than van nhưng ẩn trong ý thơ đứa bé mồ côi chỉ có bạn là con chim sẻ cũng mồ côi như mình

Con se sẻ bé của tôi 
bé giờ mất mẹ rồi 

xuống đây chơi với tôi 

My litlle sparrow, 
-you too now are motherless 

come play with me !

Trong “ Mùa Xuân của Đời Tôi “ (Oraga baru), ông diễn tả niềm đau đớn của kiếp nhân sinh vô thường trong những bài hài cú nổi danh, nhất là khi ông khóc cái chết của con gái ông: 

Cõi này nhân thế mù sương 
Vậy mà… Ô và vẫn vậy … 

vẫn là nhân thế mù sương 

This world of dew 
is only the world of dew-

and yet...oh and yet...

Cũng có người cho là Issa làm bài thơ này khi người con trai đầu lòng chết vì Issa không chỉ thẳng vào cái chết của con gái, thật ra không cần thiết luật sinh hoại trụ diệt của pháp Phật thì cái chết của con trai hay con gái hay của bất cứ ai thì bài thơ này của Issa đã đóng góp tuyệt vời cho mỗi hoàn cảnh mất mát khổ đau. Không kêu gào lăn lộn la khóc thảm thiết trước cái chết của con mình mà chỉ kêu lên nhân thế mù sương và chỉ mù sương đâu là cõi thật mà có và mất. 

Khi về già nhìn lại quãng đời đã qua và hiện tại thì hai cuộc đời đều bất hạnh như nhau, đều đau khổ quằn quại. Nhân thế mù sương vẫn là nhân thế mù sương. Chỉ khác là nay ông đã quán thấy được chính mình và tất cả không còn gì là quan trọng

Rọi chiếu lại tôi đây 
mặt cau có xấu xí 

cái ao cóc già này 

He glares back at me
with an ugly, surly face,

this old pond frog 

Tuy nhiên suốt cuộc đời long đong lúc nào Issa cũng tràn đầy niềm tin vào Pháp tu giải thoát cuả Đức Phật nên dù chỉ là tiếng rì rào của bụi hoa ông nghe như tiếng tụng kinh của cây cỏ như chính ông hằng thầm tụng

Sáng nay bụi tụng rì rào 
Hoa Nghiêm kinh gửi 

cho đời khổ đau 

Just the bush warbler
to sing morning Lotus Sutra

to this suffering world

 * 

Nhân sinh như những con rận bé nhảy nhót không bao giờ ngưng cho đến khi cạn kiệt sức lực. Cho đến khi biết được thế giới này là hành trình phiền não thì quá trễ, thế sao ngay từ khi bắt đầu hành trình ta không theo ngay phương pháp tu giaỉ thoát sinh tử, mà cứ nhẩy nhót lăng xăng tạo nghiệp làm gì, sao không dùng hết sức nhảy vào hoa sen, vào tòa Như Lai. Chợt hiểu ra cõi thế gian tất bật này Issa viết về con rận bé hay viết chính bản thân lăng xăng cuả chính Issa

Thật rằng phải nhẩy lăng xăng 
này con rận bé, sao không nhẩy vào

hoa sen 

If you really must
leap, my little fleas, why not

leap on the lotus ?

 *

Cho dù là đang thưởng thức trà ngày xuân trong khí lạnh vị trà như ngọt nhưng khi thưởng thức đã có nghẹn ngào của nước mắt pha trong trà, nước mắt đau khổ của đời, hay trà chưa ngọt đủ cần thêm nước mắt cho ngọt hơn. Trà rót suốt ngày xuân, nước mắt đổ suốt cuộc đời Issa. Tắm ướt Phật bằng trà, hay bằng nước mắt hay Phật ướt vì mưa xuân. Bấy nhiêu chữ nói tất cả đắng cay chua chát của kiếp người đã tưới bao nhiêu nước mắt lên thân Phật và chỉ có Phật vẫn bình an tự tại 

Tràn trề ướt Phật cả ngày xuân 

nước trà thì ngọt, 

nước mắt còn ngọt hơn 

Sweet tea and more sweet tears
flow wetly over Buddha

through the whole spring day

 *

Mùa Xuân Của Đời Tôi là công trình nổi tiếng nhất chỉ trong một năm ngẫu hứng Issa đã chọn lọc những hài cú, nhưng lại là một sáng tạo kể lại cuộc đời đã trải bao cực nhục. Ý thơ vô cùng súc tích, một tuyển tập thơ, một bảo vật thiêng liêng và cũng là một bằng chứng về thế giới phức tạp điên đảo vô định của ông.

Như Bashõ, Issa không giữ nguyên một tên mà chúng ta biết ngày nay. Đầu tiên là tên “Kobayshi Ikyo” và “ Nirokuan Kikumei”. Dù rằng thơ Issa nhiều hứa hẹn ngay từ khi còn trẻ, ông vẫn không bằng lòng với một cái tên thông dụng. Năm 1972 ông lấy bút hiệu Haiki-ji Nyudo Issa-bo. 

Mùa xuân đang đến rồi 
Yatarõ mới ra đời 

là Issa đây thôi 

With spring’s arrival
Yatarõ become reborn

as Issabo

Tuy Issa không phải là người thích những buổi lễ trà tỳ, vậy mà tên lại do ngẫu nhiên vào một buổi uống trà Issa nhận thấy bọt trà tan mau trong chớp mắt khiến ông cảm xúc liền chọn cái tên tầm thường ISSA (bọt trà) vì cảm nhận đời người cũng ngắn ngủi như bọt trà .

Sau đó trong hơn 5 năm trên đường đi khắp miền Nam Nhật Bản, Issa làm bạn với các thi nhân, khi trở về Edo năm 1778 cho ra tập tự thuật khiến ông nổi tiếng. Dầu vậy cũng không thật sự là một sáng tác như tập Mùa Xuân Của Đời Tôi, tập này cho thấy rõ ông thấu hiểu hán thi hợp tuyển cùng hài cú và đoản ca của các thi sĩ Nhật Bản.

Năm 1801 cha Issa ngã bệnh thương hàn nặng. Issa trở về Kashiwabara kịp để săn sóc cha già được một tháng trước khi cha ông qua đời. Dì ghẻ với người em khác mẹ tranh chấp di chúc và tước quyền thừa hưởng của ông. Về cái chết của người cha, thi sĩ viết trong tập thơ thể hiện rõ tình cảm cha con đã lơ là, tuy thế lời lẽ cảm thôngthương hại cuộc đời cha mình.

Hơn một thập niên, Issa sống nghèo khổ, đi đi về về nơi sinh trưởng và Edo vì tranh chấp pháp lý với người mẹ ghẻ. Đến khi gần năm mươi, ông cảm thấy cuộc tranh chấp không bao giờ dứt. Năm 1810 ông viết 

Ô ánh trăng sáng ngời 
ta hoang phí cuộc đời 

đang đi dưới trăng đó 

bốn mươi chín năm rồi

O moonlit blossom
I’ve squandered forty nine years

walking beneath you

 *

Cuối cùng, năm 1813 dàn xếp xong với gia đình Issa trở về Kashiwabara. Ông cưới một người vợ trẻ, và năm 1816 nàng sinh cho ông một đứa bé trai chỉ sống được một tháng. Đó là đứa con mà Issa viết bài thơ : “Thế giới của sương mù”. Đứa con gái sinh năm 1818, chết một năm sau đó về bệnh đậu mùa 

Đời của Issa là một chuỗi khó khăn bất hạnh. Đứa con trai thứ hai sinh năm 1820 chỉ sống được vài tháng. Năm 1822 đứa con trai thứ ba ra đời nhưng vợ Issa lại chết đau đớn vì căn bệnh phong thấp sau khi sanh và đứa con trai cũng chết sau đó vài tháng. Suốt thời gian này Issa đau khổsức khỏe yếu kém do chứng bệnh bại liệt trường kỳ. Đến năm 1810, ông tắt tiếng không nói được ông viết:

thật bực bội vô ngần !
cả ngỗng hoang lang thang

cũng còn kêu thành tiếng 

Such irritation ! 
Even wandering wild geese 

can manage to speak

 *

Có lẽ chỉ là chứng động não nhỏ nên thi sĩ hồi phục lại. Hẳn muốn xóa tan những năm tháng phiền muộn, ông lấy vợ lần nữa vào năm 1824. Ông chọn người vợ mới là người đàn bà trong một gia đình võ sĩ đạo cao sang địa phương. Rõ ràng nàng kết hôn vì nhắm vào cái nhà của ông và gây khổ thêm vào cuộc đời đã tan nát bất hạnh của ông. Nàng trở về nhà cha mẹ chỉ sau vài tuần lễ cưới. 

Issa lại bị bệnh bại liệt trở lại khi đến viếng chùa Zenkõ, rồi ở lại một thời gian để chữa trị. Khi bệnh thuyên giảm ông viết:

Tôi như màng bụi mỏng tơ 
nhẹ như tờ giấy 

màn che muỗi trời 

I, too, made of dust-
thin and light as the paper

mosquito curtain

 *

Không ghi rõ ngày tháng, ở tuổi sáu mươi bốn ông lấy vợ lần thứ ba. Nhưng những năm sau đó nhà ông bị cháy rụi tới nền. Vì giữ thể diện hay vì muốn sống thoải mái cố vượt qua thảm họa cuối cùng, ông từ chối không muốn trú ngụ với bạn và môn sinh, Issa cùng người vợ đang có mang dọn vào sống nhiều tháng trong một cái kho hàng nhỏ không có cửa sổ không có cả lò nấu. 

Issa chết thình lình vào ngày 19 tháng mười một năm 1827, không được thấy mặt đứa con sắp chào đời và đó là người con gái duy nhất sống sót.

Hai bài thơ như là hai bài thơ cuối cùng của Issa, đã tìm thấy dưới gối của ông 

Món quà Tịnh Độ tạ ơn 
tuyết rơi cả đến 

chiếu nằm trải lên 

Gratitude for gifts
even snow on my bedspread

a gift from the Pure Land

 *

Ông cố ý lưu lại bài thơ trên như lời cuối, nhưng sau cái chết của ông bài thơ thứ hai là bài thơ chết khác có thể thật là bài cuối cùng của ông 

Từ trong lòng chậu sinh ra 
chết trong lòng chậu cũng là như không 

sao mà bá láp rỗng không 

From birthing’s washbowl 
to the washbowl of the death-

bathering nonsense !

Cũng như những bài thơ trước, bài thơ này thu hút nhiều người đọc. Nỗi đau khổ triền miên của nhân loạithế giới si mê đã khiến thi sĩ kết luận chua cay chính đời mình bằng chữ nghĩa chăng. Có lẽ tâm của Issa thâm nhập cái ngã tự rỗng không trong kinh của Phổ Hiền Bồ Tát, tất cả “rỗng không vô tướng” thì cái ồn ào si mê bao quanh không cần thiết vì ngay khi sinh đã có diệt 

Tình cảm cuộc đời nặng nề quằn quại, hơn nửa đời người lạc lỏng tha hương và bị ruồng bỏ phải tự đi suốt con đường đời đầy thử thách, những vết khốn khổ cắt sâu vào tâm khảm khó quên, thế mà những bất hạnh đó đã tôi luyện cho Issa cho một can đảm phi thường đối đầu với bản án nhân quả. Thời bấy giờ một thi sĩ sống gò bó mang cảm súc cả một đời lận đận vào thi ca bàng bạc thiền là một điều rất hiếm, thế gian này có gì là hoàn hảo đâu ông viết :

Đi tìm khắp cả nhân gian 
tìm đâu cho thấy giọt sương vẹn toàn 

dẫu tìm trên cánh sen hồng 

Searching all this world
there is no perfect dewdrop

even on the lotus 

 *

Niềm chung thủy của Issa trong thi ca như con đường giải thoát cần phải kinh qua tương tự như Đỗ Phủ, Lý Bạch , Saigỹ và Bashõ. Issa tỏ ra coi thường chức vị, đi lang thang ngoài đường phố Edo trong manh áo rách rưới . ông nổi danh về hành động cũng như những thơ văn của mình vậy. Có một lần, một nhà quý tộc quyền hành nhất tỉnh thành mời đến để bàn bạc về nghệ thuật thi ca với Issa. Issa nhìn thẳng vào mắt ông ta và trả lời rằng ông không thể hạ thấp nghệ thuật của ông xuống cùng hạng với những tay chơi tài tử. Nhưng với những người khác ông lại là một người lập dị dễ thương. Trẻ con tôn sùng ông như một thi sĩ đại diện cho những con chim nhỏ, những con sâu con và những cánh hoa của bốn mùa.

Như Bashõ thơ Issa bàng bạc thiền và được kính trọng trong hầu hết ở mọi cấp bực 

Có rất nhiều “ đài kỷ niệm Issa” và “bia hài cú “ thơ của ông cho thế hệ mai sau; nông trại xưa nơi ông ra đời ở Kashiwabara được bảo tồn .
 
 

Ba Tiểu Phẩm

ĐÓN NĂM MỚI

Ngày xưa, trong chùa Fuko ở thành phố Tango có một nhà sư tu hành rất nhiệt tâm. Sư quyết định đón mừng ngày đầu năm mới thật toàn vẹn. Sư viết một lá thư vào chiều giao thừa và đưa lá thư cho một tăng sinh dặn phải trao lại cho ông ngay phút đầu tiên buổi sớm mai ngày đầu năm.

Vị tăng sinh thức dậy khi ánh sáng đầu tiên của năm mới có tiếng quạ kêu sớm nhất, cái bóng đen ngả dài lướt theo sau mỗi bước chân vị tăng sinh lom khom rón rén đến gõ cửa phòng nhà sư.

Giọng Sư từ bên trong vọng ra hỏi 

“ Ai gọi cửa đó ?”. 

Tăng sinh thưa “Người đưa tin mang lời chúc tụng đầu năm từ Đức Phật A Di Đà trên Niết Bàn”.

Cửa phòng nhẹ kéo sang bên, Sư chân không tiến đến mời tăng sinh vào và mời ngồi lên chiếc gối danh dự. Sư quì xuống cúi gập mình nhận thư mở ra đọc: 

Buông bỏ thế gian khổ đau ! Trở về Niết Bàn
Ta sẽ gặp con dọc đường với các vị Bồ Tát hướng dẫn con ! “

Hai hàng nước mắt nhà sư rơi đầm đìa cho đến khi ướt sũng hai cánh tay áo.

Lướt qua câu chuyện này có vẻ thật lạ lùng Ai mà muốn đón mừng năm mới với hai cánh tay áo đẫm nước mắt, cuối cùng nước mắt đó là tự cảm nghiệm do chính những lời tự viết trong lá thư như nhắc nhở. Tuy nhiên nhà sư đã thực hành thật đúng: bổn phận chính của ông là mang pháp Phật giảng dạy cho thế gian thì còn cách gì hay hơn là đón đầu năm mới bằng cách đó?
 

Còn tôi , tôi hãy còn mặc áo quần bụi bặm của thế gian đau khổ đón ngày đầu tiên của năm mới theo lối của tôi. Và cũng như nhà sư, tôi tránh mừng năm mới theo lệ thường như mọi người. Nào là hạc là rùa tượng trưng cho những lời chúc rỗng tuếch, những nghệ sĩ đến xin những lời chúc tụng của kẻ giầu sang cũng rỗng tuếch. Cây thông là phong tục đầu năm sẽ không dựng cạnh cửa nhà, tôi không quét bụi, sống trong cái chòi nhỏ xíu luôn luôn bị gió Bắc khắc nghiệt đe dọa thổi xập. Tôi đặt tất cả vào bàn tay của Phật như trong truyện cổ tích vậy.

Con đường trước mặt có thể nguy hiểm, sâu như những lối mòn ngập tuyết loanh quanh trên núi cao kia, tuy nhiên tôi đón chào năm mới như vậy đó

Năm mới là lễ chào mừng
Tôi đây như vẫn bình thường đón xuân

 
 


CHÚ TIỂU TAKAMARU.

Một buồi sáng mùa xuân thật đẹp, chú tiểu tên Takamaru mới được mười một tuổi, cùng sư huynh Kanrỹ rời chùa Mỹsen. Họ dự định đi hái một vài loại cỏ và hoa nhân sâm. Nhưng chú tiểu trượt chân trên một thanh cầu gẫy và nhào xuống con sông nước giá lạnh đang chảy siết, nước dâng cao vì tuyết đang tan từ núi Lizuna.

Nghe chú tiểu kêu cứu, sư Kanrỹ lao xuống dòng nước, nhưng ông không làm gì được. Cái đầu Takamaru nhô lên rồi biến mất. Cánh tay giơ ra trên dòng nước cuồn cuộn. Nhưng rồi tiếng la thất thanh của chú tiểu nghe như tiếng vo vo của những con muỗi đồng thời chú biến mất theo dòng sông; chẳng còn gì chỉ có hình ảnh chú in sâu vào mắt sư Kanrỹ.

Chiều hôm đó, bao nhiêu ngọn đuốc sáng rực theo dòng sông để tìm Takamaru. Cuối cùng xác chú được tìm thấy kẹt giữa những tảng đá, và quá trễ không ai cứu được chú.
Khi mang xác chú lên họ tìm thấy một nắm hạt đậu bơ trong túi áo, có lẽ đó là quà của cha mẹ cho chú. Ngay cả những người không hay khóc cũng nước mắt đầm đìa ướt cả hai cánh tay áo. Người ta đặt thân thể chú lên tấm khiên tre mang về nhà. Tối hôm đó mọi người đứng nhìn với niềm thương cảm khi cha mẹ chú hớt hãi chạy đến từ cánh đồng xa, nhìn thi thể con trai khóc những giọt nước mắt sót thương đau khổ

Thật ra như những tín đồ theo lời giáo huấn, họ luôn luôn thuyết giảng về đời sống khốn khổ này, nhưng ai có thể làm khác hơn để tránh sinh tử ? Tất cả mọi trái tim của con người tan nát bởi tình yêu con bất diệt của mẹ cha. Có phải khi chú Takamaru rời nhà lúc sáng sớm, chú hãy còn sống và cười nói, vậy mà chiều nay thì.......

Chiều nay chú tiểu nằm bất động lạnh lẽo. Hai ngày sau, đám táng của chú.

Những cánh hoa đã nở ra đón mùa xuân ấm áp sau bao nhiêu tháng tuyết đông có khóc nhiều như cha mẹ Takamaru khi biết là con người có thể hái hoa ném xuống và đốt bất cứ lúc nào. Hoa có đời sống chăng? Hoa có như chúng ta nhận thức được là có niết bàn đợi chờ

Tôi nghĩ chưa một lần
ném hoa tươi mùa xuân

vào vầng khói mù đặc

đứng nhìn khói lên cao

trên mây khói tan vào 

CÂY HẠT DẺ

Khi đến thăm cánh rừng trên ngọn núi Thiên Sơn làng Rokugawa trong khu vực Takai, tôi hái ba hạt dẻ mang về gieo xuống góc vườn sau nhà. Mầm non xanh tươi chồi lên vào mùa xuân đó, trông thật tươi mát dưới nắng ấm.

Ít lâu sau, người hàng xóm ở phía Tây khu vườn sửa lại căn nhà của anh cao hơn che khuất mặt trăng lẫn mặt trời. Năm đó cây hạt dẻ lớn chậm.

Suốt mùa đông, anh hàng xóm lại xúc tuyết từ trên mái đổ xuống phủ đầy quanh căn nhà cho đến khi trông như một ngọn núi tuyết khổng lồ hiện ra trong có một đêm. Trong con hẻm hẹp họ đi qua đi lại mang củi sưởi và nước uống lên tầng trên căn nhà. Những bước chân dậm đi dậm lại làm thành những bậc thang rắn chắc như xây bằng đá tảng mang từ núi Atago. Đến cuối đông, dấu hiệu vui tươi đầu tiên của mùa xuân rải những nụ non xanh tươi khắp cả cánh đồng, cây bắt đầu trổ lá đơm hoa. Đống tuyết khổng lồ vẫn sừng sững, trắng toát và lạnh băng.
Ngày mùng 8 tháng 4 ngoài vườn những con chim hót líu lo liên hồi. Theo tục lệ tôi sửa soạn giấy mực làm thơ. Khi ra vườn tìm cây hạt dẻ tí hon bị chôn dưới tuyết tôi chỉ tìm thấy cành gẫy. Cây có phải là người không?. Tôi cố chăm sóc cho cây không gục ngã, đến cuối năm có vài chiếc lá nho nhỏ lú ra và cây vươn cao lên được một đoạn.

Rồi mùa đông năm đó và những mùa đông sau đó đều đặn núi tuyết lại hiện ra trong có một đêm rồi cây hạt dẻ đáng thương lại bị đè bẹp dưới sức nặng của tuyết. Như vậy trải qua bẩy mùa đông. Tiếc thay cây hạt dẻ không bao giờ có hoa và cũng chẳng bao giờ có trái mà cũng không chết. Hầu như khôngđời sống cho cây hạt dẻ. Có phải kiếp người cũng trường kỳ đấu tranh để đứng vững trên thế gian này. 

Cuộc đời của tôi cũng gần giống như cây hạt dẻ của tôi. Khi mới sanh ra, mới chớm nở trong gia đình, tôi đã bị đẩy ra ngoài để tự sinh tồn giữa những cỏ dại đang vươn cao, tiếp nhận ngọn gió nghiệt ngã của ngọn núi mẹ ghẻ. Tôi không còn nhớ là tôi có được một ngày vui hưởng tự do dưới trời rộng thênh thang. Không biết bao nhiêu sợi tơ chịu đựng được đan suốt năm mươi bẩy năm dài đăng đẳng. Tha thứ cho tôi cây hạt dẻ ơi! Tôi không cố ý gieo cái hạt xuống sau vườn nhà để chia xẻ với tôi cái nghiệp không hạnh phúc trong kiếp này!!!.

Sống sót mầm non 
dưới bóng cây con

xin nơi nương tựa

Mẹ cây cao hơn.

Phật dậy rằng tất cả những sự kiện đều bắt nguồn từ nghiệp quả. Vậy thì cuộc đời đau khổ của tôi không thể ngoài luật định đó. Có phải tôi đã tự tạo ra đấy thôi. 

Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31666)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10529)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11229)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12758)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10812)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16664)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10819)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22968)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12027)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11496)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10686)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12338)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11198)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10024)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10332)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11912)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10701)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12377)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9815)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11275)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13844)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9581)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12631)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9704)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10461)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10554)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10324)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9905)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11060)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12019)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10145)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10786)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9543)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9901)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8770)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9498)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14520)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8780)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12555)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10425)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9089)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10560)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9337)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8801)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10517)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9192)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8367)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12033)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9697)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10217)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10230)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19135)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9416)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8987)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9591)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9018)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14761)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10098)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8351)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8951)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8975)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8743)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9370)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14599)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9036)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8774)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9049)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10536)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8643)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9994)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24287)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10178)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11028)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9003)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9468)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8004)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9269)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15350)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10339)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9583)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17447)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21400)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12168)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10234)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26048)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7979)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14808)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10634)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11352)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9534)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18681)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12366)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11889)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10755)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13344)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10002)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9270)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9383)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15902)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant