Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chén Trà Ngày Xuân

21 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11316)
Chén Trà Ngày Xuân

CHÉN TRÀ NGÀY XUÂN
Thích Viên Giác


blankNgày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp, thư thái nâng chén trà ngon, cho nhau một chút tình đời ý đạo, còn gì thú vị hơn!

Trà là thức uống có từ rất xưa, gắn liền với đời sống con người Á Đông, nhất là người Việt Nam. Trà có mặt trong đời sống của ta từ khi ta sinh ra cho đến khi từ giã cõi đời (người chết được liệm bằng trà), trà như là một phần tất yếu của đời sống.

Uống trà là một tập quán, tập tục của người Việt Nam, từ hình thức uống đơn giảnthông dụng cho đến thực hiện nghi thức cúng tế đều có sự góp mặt của trà. Phải nói rằng, vai tròtác dụng của trà trong đời sống của con người Việt Nam rất lớn.

Ngoài việc uống trà như là ăn cơm uống nước hàng ngày, trà còn có vai trò cao hơn là đem lại an lạc, thư giãn sau những giờ phút lao động mệt nhọc, căng thẳng. Uống trà để lấy lại thăng bằng tâm lý, cơ hội thưởng thức một thú vui; ở mức độ thấp gọi là giải trí, mức cao hơn là tập cho tâm hồn thanh cao, an tĩnh. Như vậy, uống trà đã trở thành nghệ thuật cao.

Nghệ thuật uống trà khá cầu kỳphức tạp, nó hình thành nghi thức uống trà như nghi thức của tôn giáo, có hẳn một lý thuyết về trà qua tác phẩm Trà kinh, một nghi thức uống trà gọi là Trà đạo. Có kinh, có đạo đó là tính chất tôn giáo của trà.

Nguồn gốc cây trà có từ xa xưa, nhiều huyền thoại bao quanh sự xuất hiện của cây trà, cho thấy người ta ưu ái cây trà như thế nào. Trà, theo huyền thoại, do Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma, một hôm ngài không muốn bị sự buồn ngủ chi phối khi ngồi thiền nên đã cắt hai mí mắt vứt xuống đất, ở chỗ đó mọc lên cây trà. Huyền thoại tuy không đáng tin, nhưng điều đó nói lên một thực tế rằng, những người đầu tiên dùng trà là các thiền sư, mục đích là làm cho tâm trí được bình thản và chống lại sự buồn ngủ khi ngồi thiền. Mặt khác, nghệ thuật uống trà xuất phát từ chùa chiền và các thiền sư, các đạo gia.

Nghệ thuật uống trà thịnh hành từ thời nhà Đường, là thời đại thịnh vượng nhất của Trung Hoa, nhất là về mặt thi ca, văn học nghệ thuật, trong đó nghệ thuật uống trà cùng phát triển. Lục Vũ, tác giả của Trà kinh, được coi là Trà thần, ông là một cư sĩ ở trong chùa. Sau này, nghệ thuật uống trà truyền sang Nhật Bản gọi là Trà đạo. Thời bấy giờ, nghệ thuật trà sánh vai với các nghệ thuật khác như cầm, kỳ, thi, họa. Trà được coi là cao hơn tửu (rượu) và kỳ (cờ) vì phẩm chất thanh cao của nó.

Theo Trà kinh, nghệ thuật thưởng thức trà phải hội đủ 9 yếu tố:

1. Phải chế lấy trà.
2. Phải có khả năng chọn lựa loại trà và hương vị trà.
3. Phải có đầy đủ dụng cụ.
4. Phải sửa soạn lửa củi cho đúng cách.
5. Phải có nước pha trà thích hợp.
6. Phải sấy cho đúng cách.
7. Phải tán trà cho tốt.
8. Phải pha trà một cách khéo léo.
9. Phải uống trà đúng cách.

Vấn đề chủng loại trà cũng rất phong phú, nó cũng liên quan đến nghệ thuật thưởng thức trà. Có những loại trà nổi danh trong lịch sử được ghi chép lại như trà Long Tĩnh ở Triết Giang, trà Mông Đỉnh ở Tứ Xuyên… Càng ngày càng có nhiều loại trà nổi tiếng, không chỉ ở Trung Quốc mà ở Việt Nam ta cũng có nhiều loại trà đặc biệt được nhiều người ưa chuộng như trà móc câu, trà ướp sen, trà lài hoặc trà không ướp… thuộc các địa danh Bắc Thái, Thái Nguyên, Bảo Lộc…

Những loại trà nổi danh cũng có những huyền thoại thú vị như trà Mông Đỉnh ở Tứ Xuyên đã đi vào văn học Phật giáo. Trong nghi lễ tiến cúng các hương linh, nghi dâng trà có bài kệ:

Dương Tử giang tâm thủy
Mông Sơn đỉnh thượng trà

Hương linh tam ẩm liễu

Tảo sinh pháp vương gia

Tạm dịch:

Nước dòng sông Dương Tử
Chế bình trà Mông Sơn

Hương linh ba lần uống

Sinh qua cõi Phật liền

Tuy hơi cường điệu, nhưng muốn nói rằng một tách trà ngon đúng điệu sẽ làm cho tâm hồn vơi đi những muộn phiền, tâm hồn sẽ thanh tịnhđạt được trạng thái siêu thoát.

Về nghệ thuật pha trà và uống trà, Trà kinh và các sách bàn về nghệ thuật pha tra, thưởng thức trà khá phức tạp, tựu trung có năm yếu tố căn bản để có được một tách trà ngon: 

1. Trà ngon, 2. Biết pha chế, 3. Thời giankhông gian, 4. Tâm trạng, 5. Bạn bè.

1. Trà ngon:

Tùy theo khẩu vị để mua loại trà có ướp hay không ướp. Nếu ướp như trà sen ở Huế (sen trắng) là tuyệt vời. Trà một lá, hai lá, ba lá. Một lá là ngon nhất. Phải biết bảo quản, đừng để hở gió, ẩm mốc.

2. Biết pha chế: 

a. Trà cụ: Bình và tách trà bằng đất nung hay sứ, không dùng kim loại và thủy tinh, gồm có: Bình, tách (một chén lớn và các chén nhỏ) thìa gỗ hay tre để lấy trà, khay trà (thêm trà thuyền), bình đựng trà. Tất cả đều phải sạch sẽ (nhưng không rửa bằng xà phòng) bày sẵn ở trên bàn. Ấm trà được mở nắp lật ngửa trên bàn hay trên dĩa để không bị dơ.

b. Tự mình pha chế trà: Khác với uống rượu có người hầu rượu, đối với trà thì tự mình sắp đặt bình tách, tự mình pha trà. Điều này nói lên cái lý khắc kỷ vô ngã, không kiêu kỳ cao sang, làm cho trà và tâm mình trở nên thanh khiết. Mỗi động tác chuẩn bị đều được kiểm soát, tỉnh thức và nhẹ nhàng.

c. Lấy nước sôi đổ vào bình trà và các tách trà cho nóng đều, xong đổ nước ra (thở vào thở ra 3 hơi).

d. Lấy thìa gỗ xúc trà bỏ vào bình, lấy nước sôi đổ vào chút ít để rửa trà và đổ ra ngay khi trà chưa kịp ngấm.

e. Rót nước sôi vào (nước khoảng 90o) nhẹ nhàng đậy nắp lại (thở 3 hơi).

Nếu pha với nước sôi chưa đủ độ (80o) thì hương trà chưa bốc. Nước nóng già quá thì hương bốc mạnh nhưng không bền, không có hậu; nấu vừa sôi lấy xuống ngay, sẽ nguội bớt còn khoảng 90o-93o là tốt.

g. Rót trà khoảng 2/3 bình ra chén lớn, chừa lại 1/3 để làm nước cốt dùng cho lần hai. Rót trà từ chén lớn ra chén nhỏ (thở 3 hơi). Nâng tách trà lên thưởng thức hoặc mời khách. Một ấm trà không nên pha quá hai lần.

3. Thời giankhông gian:

Uống trà vào lúc nào ở đâu? Người xưa nói: “Bán dạ tam bôi tửu, bình minh nhất trản trà” (Đêm về ba cốc rượu, sáng sớm một chén trà). Vậy, vào buổi sáng trước khi đi làm, thưởng thức một bình trà rất sảng khoái. Buổi chiều sau khi làm việc, thanh thản uống một hai chén trà cũng tốt. Vấn đề nơi chốn thì trong phòng hay ngoài sân, trong vườn đều tốt, chỉ cần sạch sẽ thoáng mát và yên tĩnh.

4. Tâm trạng:

Uống trà lúc tâm tư rối bời, lo lắng, sợ sệt hay hưng phấn, náo nhiệt đều không đúng. Tâm lý phải trầm ổn, thư tháitỉnh thức. Sự cảm nhận hương vị một tách trà liên quan rất chặt chẽ với tâm trạng. Thiền sư Nhất Hạnhbài kệ uống trà rất hay:

Chén trà trong hai tay,
Chánh niệm nâng tròn đầy,

Thân và tâm an trú,

Bây giờ và ở đây.

Một cảm xúc trọn vẹncảm xúc toàn diện thống nhất giữa tâm thân và hoàn cảnh. Một giây phút ngưng đọng vắng mặt mọi tư duy, đối chiếu, phân biệt, thất tình, lục dục… Một cảm giác siêu thoáttác dụng nuôi dưỡng thân tâm. Hoặc như bài thơ của thi sĩ Quảng Từ Vân:

Hương trà quyện cả non sông,
Nước trong xanh biếc thấy dòng tử sinh

Không thời gian gánh nghĩa tình, 

Mây qua trăng tỏ thấy mình còn đây. 

Một cái nhìn trọn vẹn là một cái nhìn thấy rõ các mối quan hệ của tách trà với con người, vũ trụ, thiên nhiên, uống trà như uống cả vũ trụ.

Tuy nhiên, trong một hoàn cảnh đặc biệt, tâm trạng não nề, trà cũng làm cho người ta say như rượu: 

Vị trà pha nước mắt,

Tỏa mùi hương quanh đây,

Bạn bè giờ xa khuất,

Quê hương như bóng mây,

Cồn cào trong gan ruột,

Chén trà làm ta say.

(Mạc Đình Phương)

Trà, vừa có tác dụng thư giãn, thanh tĩnh tâm vừa có tác dụng làm vơi đi nỗi buồn đè nặng lên tâm tư của con người.

5. Bạn bè đối ẩm:

Nếu có bạn bè thì phải là bạn đồng cảm, đồng điệu có thể chia sẻ với nhau những vấn đề riêng tư mà không còn sự tự vệ nào. Khi đông người thưởng thức thì cần có người phục vụ, phải là người được tập luyện, tránh thô kệch, vụng về làm mất đi nhã hứng thưởng thức trà.

Trong đời sống hiện đại, con người phải đối mặt với tốc độ tăng trưởng về mọi mặt của xã hội. Sự đấu tranh, cạnh tranh sẽ tạo nên những áp lực, nhiều căng thẳng làm mất thăng bằng tâm sinh lý đưa đến bệnh tật, stress. Tìm cho mình cơ hội để thư giãn tinh thần là điều cần thiết. Thưởng thức trà là cơ hội trong tầm tay của mọi người.

Qua thưởng thức trà, như là một nghệ thuật thư giãn, sẽ đưa đến cho ta một sự hưởng thụ nhẹ nhàng, thú vui thanh nhã, làm quân bình đời sống tinh thầnsinh hoạt đời thường, nâng cao chất lượng và ý nghĩa sống cho con người. Được vậy, ngày nào cũng là xuân như Mãn Giác thiền sư

Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước một cành mai

Thích Viên Giác 
(Giác Ngộ xuân Mậu Tý)

Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 20327)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22188)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18658)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 26870)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18575)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 19824)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 37934)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20016)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28166)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46125)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15339)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65483)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13618)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18496)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15438)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14467)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18607)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12538)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17548)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25317)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38565)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17572)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11173)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18465)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17316)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13096)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13242)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17402)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24199)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12296)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13727)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 12923)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12809)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14089)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14516)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21034)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22488)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 29856)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13763)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18136)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 16947)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12533)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30629)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22656)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14537)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 12932)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12654)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12443)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 12986)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16239)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15086)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23754)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16104)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 28873)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20202)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15489)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37103)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 44915)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 36744)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant