Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quốc Lễ Cầu An Chúc Thọ Đầu Năm Triều Đại Nhà Lý

21 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10028)
Quốc Lễ Cầu An Chúc Thọ Đầu Năm Triều Đại Nhà Lý

QUỐC LỄ CẦU AN CHÚC THỌ ĐẦU NĂM
TRIỀU ĐẠI NHÀ LÝ
Thích Phước Đạt

 


Kể từ khi đất nước ta bước sang thời kỳ độc lập tự chủ hoàn toàn, đến triều đại nhà Lý thì Phật giáo đã tự khẳng định vai trò của mình không chỉ trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng mà còn tham gia tích cực trong việc phục hưng mọi giá trị văn hóa của dân tộc.

Ta thấy, một trong những việc làmý nghĩagiá trị thiết thực đối với dân chúng là tổ chức các lễ hội cầu an mang tính quốc gia vào các dịp đầu năm do Phật giáo tổ chức dưới sự bảo trợ của triều đình. 

Một mặt Nhà nước kết hợp với Phật giáo tổng kết các thành tựu của quốc gia trên mọi lĩnh vực, tuyên dương công đức của cá nhân và tập thể đã đóng góp cho nước nhà, cho dân tộc. 

Mặt khác, Nhà nước cũng muốn phô diễn và thị uy với các sứ giả lân bang biết về sức mạnh của Đại Việt. Qua đó, nhà vua cũng tuyên cáo những chủ trương và đường hướng hoạt động của nước nhà như là lời ước nguyện của dân tộc trước thời khắc trọng điểm của một năm mới. 

Theo sử sách ghi nhận, trong vòng gần 200 năm trị vì, nhà Lý đã tổ chức rất nhiều lễ hội kỳ an đầu năm cho toàn thể dân chúng Đại Việt. Nhưng nổi bật hơn cả, vào thời kỳ vua Lý Nhân Tông, mà chính sử Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử lược ghi về lễ kỳ an - hội đèn Quảng Chiếu

 

blankCụ thể Đại Việt sử lược 2 tờ 20b8 và 22a4-5 ghi vào năm Canh Dần (1110): “Mùa Xuân tháng Giêng, tổ chức hội đèn Quảng Chiếu ở ngoài cửa Đại Hưng” và vào năm Bính Thân (1116) lại ghi “Mùa Xuân tháng Giêng tổ chức hội đèn Quảng Chiếu ở ngoài cửa Đại Hưng, chế tạo nhà sư bằng gỗ cột vào đánh chuông”.

Còn Đại Việt sử ký toàn thư 3 tờ 20b5 và tờ 24a9-b1 ghi vào năm Canh Tý (1120) “Mùa Xuân, tháng Hai, mở hội đèn Quảng Chiếu” và vào năm Bính Ngọ (1126) “Mùa Xuân tháng Giêng, mở hội đèn Quảng Chiếu bảy ngày đêm. Tha người có tội ở phủ Đô Hộ, xuống chiếu cho sứ thần của Chiêm Thành xem”.

Chính sử chỉ ghi như vậy thôi, chẳng có thêm thông tin gì cả. Nhưng may mắn thay, tư liệu đương thời là bài Đại Việt đương gia đệ tứ Sùng Thiện Diên Linh tháp bi của Thượng thư Nguyễn Công Bật, (Thơ văn Lý Trần, tập 1, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1977) thì lại mô tả khá chi tiết về lễ kỳ an - hội đèn Quảng Chiếu để chúng ta nhận định về quy mô tổ chức, tính hoành tráng và ý nghĩa sự kiện trọng đại này trong đời sống văn hóa dân tộc.

Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo, là hệ tư tưởng để thực thi các nhiệm vụ trọng đại mà nhu cầu lịch sử dân tộc đặt ra. 

Thế nên Lý Nhân Tông trong vai trò lãnh tụ tối cao của quốc gia, một Phật tử thuần thành đã đề xuất với Thiền sư Mãn Giác rằng “Bậc chí nhân thị hiện, tất lo việc cứu nước, cứu người, không hạnh nào chẳng đủ, không việc gì chẳng làm, không chỉ có sức định tuệ, mà cũng có công phò tá”. 

Và như thế, mọi người dân Phật tử Đại Việt không ngừng tu tập giới định tuệ mà còn phải tích cực tham gia đóng góp cho công cuộc tái thiết nước nhà, xây dựng quê hương. Vào thời kỳ này, ta thấy việc xây chùa, dựng tượng, đúc chuông được diễn ra khắp mọi nơi như biểu thị thành quả của đất nước trên các lĩnh vực văn hóa, chính trị, kinh tế. Lễ kỳ an chúc thọ hàng năm của triều đình trở thành lễ kỳ nguyện cả dân tộc “trấn giữ kinh đô của nhà vua” (trụ tích trấn vương kỳ), là nơi thể hiện khát vọng của cả dân tộc mà sử sách ghi “cầu phúc thọ”.

Văn bia Sùng Thiện Diên Linh mà Thượng thư Nguyễn Công Bật ghi nhận mục đích của việc xây chùa “để mồng một hàng tháng, để mùa Xuân hàng năm, nhà vua mình ngồi xe ngọc, đến mở tiệc chay, hương hoa bày lễ cầu an, bồn chậu để tắm Phật. Trang sức tinh thành cho năm chúng, hoặc hở vai tiến thoái nhịp nhàng, tạo đội ngũ thiên vương ở bốn phương, nâng khí cụ bồi hồi nhảy múa, tinh cần chẳng trễ, kính phụng nào ngơi. 

Vì vậy mà huyền tạo linh thông đều phù hộ. Đó là bệ hạ dựng chùa để cầu phúc thọ”. Rõ ràng việc kỳ an đầu năm, đầu tháng mà nhà vua xuống chiếu tổ chức để thành lệ hàng năm không còn ý nghĩa cho chỉ riêng mình vua và hoàng tộc mà cả dân tộc, của trăm họ muôn dân đang sống trong biên cương lãnh thổ Đại Việt bấy giờ. 

Và ta chẳng ngạc nhiên khi các thư tịch văn bia liên hệ đến việc xây dựng chùa chiền đều xác định rõ quan điểm nhất quán là, việc tạo dựng chùa chiền, tổ chức lễ hội kỳ an là nhằm thiết lập, thực thi ý nguyện xây dựng và phát triển dân tộc Đại Việt trở nên cường thịnh, đạo pháp được trường tồn

Cho nên, trong bài “An Hoạch sơn Báo Ân tự bi ký” do Chu Văn Thường viết vào khoảng năm 1100, đã không ngần ngại ghi vào “Nhóm người dựng chùa là để mãi mãi giữ lấy nước nhà” (mộ tu tượng pháp, vĩnh bảo bang gia).

Trong ý nghĩa đó, sự chuẩn bị lễ kỳ an - hội đèn Quảng Chiếuchính sử ghi nhận được tổ chức hoành tráng. Nếu không có sự bảo trợ của nhà nước phong kiến thì giới Phật giáo cũng không thể thực thi và hoàn thành được. Một đại lễ kỳ an chúc thọ gắn liền lễ hội đèn Quảng Chiếu 7 ngày đêm, cả hoàng gia và dân chúng Đại Việt được sống thế giới Phật quốc an lành. Tất cả đã nói lên tinh thần đoàn kết dân tộc, không phân biệt mọi thành phần, tầng lớp khác nhau trong xã hội, cùng nhau hướng nguyện xây dựng cuộc sống thật thanh bình, quốc gia thật vững bền

Văn bia Sùng Thiện Diên Linh tả như sau: “Dựng đài cao Quảng Chiếu, nhắm sân trước cửa Đoan Môn, trong nêu một cột, ngoài đặt bảy tầng, uốn mình rồng hình cung hiện ra mà đỡ lấy sen vàng, may lồng nhiễu mà che cho lửa nến, giấu máy nhỏ dưới đất, xoay tròn như bánh xe, tỏa ánh sáng giữa trời như mặt trời rực rỡ, lại có thánh báo nghiêm trang rõ ràng. Đền vàng điện báu nhờ thành ý mà dựng nên, đặt ngôi tượng Đức Phật cao vót, dáng vẻ văn thiên, hình thô vẻ lạ.

Lại có hai tòa lầu hoa trong treo chuông vàng, khắc hình nhà sư, mình đắp y phước điền, vặn máy ngầm giơ vồ chuông lên đánh… Lại có tháp thất bảo rực rỡ bày xếp một hàng, chính giữa đặt một ngọn núi vàng, đặt tượng lành Đa Bảo Như Lai, bảy chân hình xe pháp mấy tầng, mái hiên lấp lánh ánh mặt trời buổi sáng, mái ngói lung linh vẻ mây biếc ban chiều. 

Thứ đến là hai tòa Bạch Ngân. Bên trái đặt chân dung A Di Đà, bên phải dựng tượng Đức Diệu Sắc Thân, chiều cao mở ra thế khỏe, vẻ đẹp phô rõ mái cong, long lanh ngỡ tuyết đang tan, rực rỡ át trăng thu vằng vặc. 

Thứ nữa là hai tòa Điểu Văn. Bên trái đặt từ nhang tướng của Như Lai Quảng Bác Thân, bên phải thờ diệu tướng của Như Lai Ly Bố Úy, gác lớn đã hoàn thành, độ cao lại xây dựng, nóc che ngói quý, vách chạm hình rồng. 

Lại thứ nữa có hai tòa Tượng Xỉ. Bên tả đặt hình Đức Cam Lồ Vương, bên hữu thờ tượng đẹp Đức Bảo Thắng Phật, chất quý gọt mài, cột hiên cao dựng, các cạnh khám ngọc đẹp… 

Lại tả chín tầng trời bằng năm sắc, khắc bốn cột bằng cặp đối treo, hai bên nghìn đèn nhấp nháy, bốn mặt rực rỡ vàng son. Dốc lòng vui của thiên hạ, đêm trở thành ngày, thỏa lòng mắt của thế gian, già đổi nên trẻ. Ấy là công lao xây dựng thắng duyên của bệ hạ”.

Với cách mô tả như trên, ta thấy lễ kỳ an - hội đèn Quảng Chiếu thật hoành tráng, nó được thực thi theo mô hình thiết kế được rút ra từ trong các kinh điển nhà Phật mang một giá trị tâm linh, với mục đích nguyện cầu âm siêu dương thái. 

Hay nói cách khác đó là sự kết nối yêu thương của bao thế hệ cha ông và con cháu Đại Việt xưa naynhà sư thường khấn nguyện trong các buổi lễ kỳ an với tâm thành mong muốn “quốc thái dân an”. 

Điểm nhấn của mô hình lễ hội này là ngôi tháp 7 tầng hùng vĩ với sự trang hoàng hết sức cầu kỳ bằng châu ngọc, được thiết kế với các thiết bị đặt ngầm bên dưới để có thể quay chiếc tháp 7 tầng. Điều đáng nói là bên trong ngôi tháp tôn trí tượng Đa Bảo Như Lai trên ngọn núi vàng. Hai bên tòa Bạch Ngân đặt tượng A Di Đà và Đức Diệu Sắc Thân. Thứ nữa là hai tòa Điểu Văn đặt hai tượng Đức Như Lai Quảng Bác ThânLy Bố Úy. Và cuối cùng là hai tòa Tượng Xỉ thờ Đức Cam Lồ Vương và Bảo Thắng. Bảy vị Như Lai này tuy thuộc hệ Mật giáo, nhưng lại được đề cập tới rất giới hạn như một hệ thống bảy Đức Như Lai

Theo các bản kinh như Du già tập yếu cứu A Nan nghi quỷ, Du già tập yếu diệm khẩu thí thực nghi kinh và Cứu bạt diệm khẩu ngạ quỷ Đà la ni thuộc Đại tạng kinh thì 7 vị Như Lai này có chung một chức năng độ trì được thực thi trong các nghi thức chẩn tế, bạt độ, cúng ngạ quỷ của Phật giáo. Và trong một lễ kỳ an - hội đèn Quảng Chiếu vui như lễ hội dân tộc nhằm “dốc hết hòa vui của thiên hạ, để đêm trở thành ngày” không thể không có mô hình “thất bảo Như Lai” vừa mang tính hoành tráng vừa mang giá trị tâm linh kết nối yêu thương các loài, các thế hệ với quan điểm đầy chất nhân văn “âm siêu dương thái”. 

Rõ ràng việc thờ tự và đỉnh lễ 7 vị Phật này trong lễ hội kỳ an trọng đại đầu năm như thế này là có lý do của nó. Bản kinh Cứu bạt diệm khẩu ngạ quỷ đà la ni kể rằng có một con quỷ đói hiện ra trước mặt A Nan và báo rằng ba ngày nữa là chết. Trước cái cảnh bi thảm như thế, A Nan đã hỏi ngạ quỷ ấy làm sao thì khỏi chết. Quỷ bảo rằng phải bố thí cho nó. A Nan đến thỉnh cầu Phật và được Ngài chỉ cho nghi thức cúng quỷ đói. Nhờ việc bố thí đó mà A Nan đã không những thoát chết mà còn trường thọ

Đúng như bản kinh chép “Ban thức ăn cho quỷ đói thì liền có thể đầy đủ được vô lượng công đức, giống như công đức cúng dường cho trăm ngàn ức Như Lai không sai khác. Được thọ mạng lâu dài, tăng thêm sức lực và vẻ đẹp, căn lành đầy đủ. Hết thảy A tu la, Dạ xoa, La sát, các ác quỷ thần không dám xâm hại, lại thành tựu được vô lượng công đức thọ mạng”. 

Cho nên, trong một thời khắc quan trọng của ngày đầu năm, hẳn nhiên người ta càng mong muốn được Phật Thánh độ trì cho mình và mọi người được sống lâu trường thọ, sắc thân thêm tươi đẹp. Xem ra từ một nghi thức cúng cho quỷ đói, nó đã được đưa vào trong nghi lễ cầu an, cũng như trong các lễ hội dân tộc, phục vụ cho người còn sống. Tại đây ta dễ dàng hiểu tại sao một lễ hội đèn Quảng Chiếu rực sáng suốt đêm như ánh mặt trời chiếu ban ngày, nhộn nhịp và tưng bừng như thế lại có thêm nghi thức cúng quỷ đói của Mật giáo. Bởi vì có gì hạnh phúc hơn bằng khi con người được Phật độ trì sống lâu, mạnh khỏe và sắc đẹp thêm bội phần. 

Cũng vì lẽ này mà trong tâm thức người Việt Nam kể từ đó, bất cứ sự kỳ nguyện nào, nghi thức cúng cấp nào phục vụ cho người sống đều kèm theo nghi cúng cô hồn để nguyện cầu tăng phước và tăng thọ. 

Hơn nữa, trong xu hướng đất nước phát triển thịnh vượng thì đời sống văn hóa nước Đại Việt càng có nhiều cơ hội để thăng hoa từ văn hóa vật chất cho đến văn hóa tinh thần. Những lễ hội văn hóa dân tộc như lễ cầu an - hội đèn Quảng Chiếu mang âm hưởng màu sắc chủ đạo Phật giáo thường được tổ chức trọng thể dưới sự bảo trợ của chính quyền nhà Lý là một dịp dân chúng nước Đại Việt tiếp xúcthông cảm hòa hợp giữa các thành phần trong xã hội

Bởi vì, dù là ai, hoàng tộc hay bần nông khi vào cửa Phật đều là con nhà Phật cả, nghĩa là con một nước theo nghĩa “đất vua - chùa làng - phong cảnh Bụt”. Trên hết, là sự biểu đạt tinh thần đoàn kết toàn dân, sự yêu thương, độ lượng khoan dung từ triết lý từ bi hỷ xả của đạo Phật được vận dụng trong chính sách chủ trương của Nhà nước.

Do đó, cứ vào dịp lễ hội nào, nhất là lễ kỳ an đầu năm theo thông lệ thì vua đều xuống chiếu phóng thích tha tội chết hoặc tha cho những tội phạm trong nước như Đại Việt sử ký toàn thư từng ghi. Nó được thực thi bởi những vị vua Phật tử đời Lý, lấy nhân từ làm gốc, đến nỗi sau này sử thần Lê Văn Hưu dưới cái nhìn Nho học mà phê bình khá gay gắt trong Đại Việt sử ký toàn thư về chính sách khoan dung độ lượng nhà Lý: “Nhân Tông thường nhân việc mở hội Phật mà tha cho người có tội, là không phải lẽ, nhưng mà còn mượn tiếng hội Phật. Còn như vua Thần Tông thì không có việc gì mà cũng tha bổng. Phàm người có tội phạm pháp, có kẻ nặng người nhẹ, năm bậc hình phạt, có trên có dưới, sao lại tha bổng được? Nếu nhất loạt tha cả thì kẻ tiểu nhân may mà được khỏi tội, đó không phải là phúc của người quân tử. Cho nên thời xưa nói về đạo trị nước, tuy nói rằng không thể không xá tội, nhưng cũng cho rằng xá tội là có hại. Tha lỗi thì được, tha tội thì không được. Kinh Dịch nói ‘Tha lỗi, giảm tội’. Kinh Thư nói ‘Lầm lỗi thì tha cho, cố phạm thì trị tội’. Thế là phải”. 

Chưa dừng ở đó, lễ hội kỳ an -đèn Quảng Chiếu mà sử sách và văn bia Sùng Thiện Diên Linh ghi nhận là một dịp không chỉ dân ta vui vẻ mừng năm mới đến mà còn là dịp để biểu dương sức mạnh cả dân tộc đối với các nước lân bang. Điều đó chứng tỏ Phật giáo không chỉ tham gia vai trò cố vấn chính trị mà còn có tham gia phò tá đóng góp công sức trên các lĩnh vực khác của đời sống dân chúng Đại Việt. 

Ta thấy chính sử ghi có 4 lần vua Lý Nhân Tông tổ chức lễ hội, trong đó có một lần xuống chiếu mời sứ thần Chiêm Thành tham dự. Văn bia Sùng Thiện Diên Linh diễn tả lễ hội Quảng Chiếu cực kỳ công phu để lại dấu ấn lớn trong lòng dân Đại Việt. Nó như biểu dương sức mạnh cả dân tộc đang vươn hình hài lớn dậy để bước sang thời kỳ hoàng kim, thắp sáng hàng nghìn ngọn đèn như tỏ ý kinh Thăng Long từ đây chấm dứt đêm dài thời trung cổ. Sự thật lễ hội kỳ an - đèn Quảng Chiếu đã minh chứng tinh thần sức sống Đại Việt “Khuynh thiên hạ chi ung hòa, dạ vi trú thưởng” (dốc lòng hòa vui thiên hạ thì đêm mới trở thành ngày) như tinh thần văn bia đề cập.

Hay nói cách khác, dân tộc Đại Việt hằng nguyện tiếng kinh cầu “Nguyện ngày an lành, đêm an lành. Đêm ngày sáu thời đều an lành. Tất cả các thời đều an lành. Xin nguyện Từ bi thường gia hộ” như kinh điển từng chỉ dạy. Đây là một thái độ sống của người dân Đại Việt luôn yêu chuộng hòa bình, đoàn kết, tương thân, tương ái. Cho nên trong 50 năm cầm quyền, vua Lý Nhân Tông đã hơn 18 lần làm chùa và tổ chức lễ hội. Cứ mỗi lần xây xong, nhân dân cùng nhà nước tự nguyện cùng nhau tổ chức lễ khánh tạ kỳ an, dân chúng có thêm một trung tâm phục vụ tín ngưỡng, văn hóa giáo dục đào tạo ra những mẫu người yêu nước thương dân, giàu lòng phụng đạo hơn bao giờ hết. 

Trên hết, chùa là nơi là thực thi khát vọng bình an nội tâm, là cơ sở toàn dân trấn giữ đế đô vương triều, bảo vệ chủ quyền đất nước mà Phạm Sư Mạnh đã ca ngợi trong văn bia tháp Báo Thiên ở Thăng Long:

“Trấn áp Đông Tây giữ đế đô, 
Ngang nhiên ngọn tháp vút lên nhô
Non sông vững chãi tay trời chống
Nay xửa khôn tiêu đất cắm vồ”

Vì thế, mỗi người dân ai cũng hưởng được trọn phúc lành nhiệm mầu từ ánh sáng từ bitrí tuệ của Phật. Sự kỳ nguyện đầu xuân hàng năm của người con Phật, nó không chỉ trở thành lễ hội tín ngưỡng nữa mà là lễ hội văn hóa dân tộc tình người, trong ý nghĩa phát huy mọi giá trị truyền thống văn hóa dân tộc, đúng như văn bia Sùng Thiện Diên Linh ghi: “Hương trầm khói tỏa quanh, Gấm vóc khoe xuân sắc, Phúc lành khắp chúng sinh, Gông cùm và tục ngục, Phá bỏ, đời thanh bình”.

Thích Phước Đạt 
(Xuân Mậu Tý)

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10117)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10516)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10135)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20399)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11654)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13792)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19133)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46715)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12095)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11675)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23086)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17857)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10159)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17766)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13936)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 14050)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15113)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20301)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18297)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17413)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18179)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12724)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12857)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13426)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 17044)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11485)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18296)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18599)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21386)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22170)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16877)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12564)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15337)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24622)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14240)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11648)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19742)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13425)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22810)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 19006)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18464)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21629)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20533)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 20037)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14079)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 15010)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13797)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15113)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17243)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15300)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12822)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15884)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 12999)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13139)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 15025)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22651)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7160)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19367)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37711)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9176)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8683)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17903)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14876)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 27054)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19950)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15270)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15487)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26797)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14569)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19714)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14638)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18661)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15937)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16359)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19366)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19739)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19909)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18609)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29836)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14578)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17768)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32439)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15277)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17314)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29770)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31550)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64714)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32811)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20239)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18533)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30824)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19927)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45911)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32604)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39360)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40459)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50150)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19098)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18566)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20697)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant