Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

2. Giai đoạn rèn tâm giải thoát

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 9411)
2. Giai đoạn rèn tâm giải thoát

CON ĐƯỜNG TÂY PHƯƠNG
Tịnh Sĩ biên soạn

CON ĐƯỜNG TÂY PHƯƠNG

II. Giai đoạn rèn tâm giải thoát

Cũng gọi là giai đoạn xả ly thế gian. Hành giả dứt trừ ái dục, sống nếp sống ngoài vòng tục lụy.

Cũng gọi là giai đoạn hướng về Tây phương. Hành giả chuyên tâm cầu sinh Tây phương Cực lạc, thành thực chí nguyện giải thoát.

Ở giai đoạn rèn tâm hành thiện trên, hành giả chỉ mới cải đổi tâm trở nên tốt đẹp, sống với niệm từ ái, yêu thương, hành giả còn khởi các ham muốn tốt lành để diệt trừ nghiệp ác. Do vậy, tâm ái dục của hành giả vẫn còn, hành giả còn bị thế gian chi phối, tâm yêu tiếc thế gian còn mạnh, ý rong ruổi thế gian còn nhiều, chí giải thoát còn yếu. Thế nên, khi tâm mình trở nên hiền thiện rồi, hành giả phải tiếp tục giải thoát, xả ly ái dục của thế gian.

“Ái” ở đây không có nghĩa là riêng chỉ cho tình thương nam nữ, vợ chồng, mà bao gồm mọi sự đắm trước của chúng sinh đối với muôn loài vạn vật. Tình thương dù với ý nghĩanếu không chừng mực, không có lý trí soi sáng, không hướng thượng và có tính cách ràng buộc, đều gọi là ái. Đắm luyến sự vật cũng gọi là ái. Còn ái luyến thế gian tất còn trở lại thế gian.

“Dục” tức ham muốn. Dục ở đây không phải riêng nói về dục lạc xác thịt mà gôm chỉ hết tất cả các ham muốnthế gian, từ những ham muốn xấu xa đến các ham muốn tốt và các loại ham muốn vô nghĩa, không thiện không ác. Những ham muốn xấu ác, ở giai đoạn đầu hành giả phải trừ sạch. Trong giai đoạn này, hành giả còn các ham muốn thiện và vô ký (không thiện không ác) ngoại trừ mong muốn giải thoát, tất cả các mong muốn thiện và vô ký ấy đều phải được xả bỏ. Ví dụ chúng là thiện, chúng còn là thế gian hữu lậu sinh tử. Hành giả chỉ sống và làm những việc cần thiết phải làm chứ không được muốn làm. Muốn hay không muốn đều trái với tâm giải thoát.

Ở giai đoạn trước, hành giả cần khởi tâm muốn làm các việc lành. Nhưng ở giai đoạn này thì không được muốn nữa. Vì “muốn” là biểu hiện của sự chưa cần và không thật ích. Thực hành công phu giải thoát mà còn ham làm việc này việc nọ, muốn món này món kia thì khó tránh loạn động, không thể xa lìa thế gian, làm sao đạt kết quả giải thoát ? Đối với sự vật, dù biết là tốt cũng không được muốn. Tâm muốn vi tế đưa đến tâm tham luyến, tâm muốn thô tháo đưa đến tâm tham cầu, cả hai đều là ràng buộc, cả hai đều đến lo âu phiền não khi không thành tựu. Mọi vật, mọi việc đúng duyên phải đến thì không tránh nó, nhưng chưa đến thì không nên muốn, còn đã mất đi thì không nên luyến tiếc.

Tâm ái làm cho con người đắm say khi tiếp đối thế gian và khiến người ta tiếc nuối lúc xả ly thế gian. Tâm dục (ham muốn) làm con người tầm cầu dong ruổi theo thế gian. Tâm ái dục này thường gây ra sự sợ hãi lo âuphiền não khi xa lìa thế gian và gặp cảnh trái với nó, khiến chúnh sinh quay cuồng trong các sự việc thế gian, nó là cội gốc của sự luân hồi không dứt.

Hành giả tu giải thoát phải tỉnh giác nhận rõ những biểu hiện của ái dục và ngăn trừ khi nó vừa phát khởi nơi tâm. Từ chỗ tiếp xúc với các thứ thuận lợi vừa ý, tâm sinh nên thích, đây là cội nguồn của ái. Mến thích đưa đến thân hậu, lo lắng, chăm nom, tức là ái đã hình thành. Từ thân hậu lo lắng, chăm nom trở nên sợ hãi khi nghĩ nó hoại mất là ái đã mạnh hơn lý trí và buồn nhớ tiếc nuối khi những thứ ấy mất mát hoặc lìa xa, tức đã bị ràng buộc, ái đã ăn sâu nơi tâm thức. Tâm ham muốn phát sinh từ sự phân biệt thấy lợi vừa ý hoặc do lòng ái trước đưa đẩy để thỏa tính tham nhiều. Một ý niệm ham muốn vừa khởi nếu không được tự chủ đoạn trừ sẽ đưa đến sự tìm cầu, suy tính lo âu, sợ hãi và não phiền điên đảo.

Hai tâm ái và dục này trợ giúp nhau, nối tiếp nhau làm hành giả luôn loạn động quay cuồng thiếu tỉnh giác, khó chuyên nhất trong việc tu hành.

Để xả ái dục, hành giả hãy quán sát về nó để thấu rõ bản chất của nó, rồi chuyên tâm cầu sinh Tây phương. Đây là phương pháp tuyệt diệu nhất.

Hành giả quán sát thế gian, quán sát sự vô thường giả ảo và khổ đau của tất cả mọi thứ danh lợi tình cảm và sự vật trên thế gian, quán sát sự ràng buộc của thời gian, sự khổ đau trong vòng sinh tử. Quán sát sự điên đảo thấp thỏi ràng buộc ngu siđau khổ khi còn sống với tâm ái dục, quán sát sự thanh thoát, an lạc, sáng ngời, cao quý khi đoạn dứt ái dục. Bằng sự quan sát chân thật, rõ ràng sâu xa, hành giả sẽ không còn mù mờ về bản chất của ái dụcthế gian. Hành giả sẽ mong muốn xả ly thế giandũng mãnh đoạn trừ ái dục, tức đã chặt đứt cội gốc của ái dục. Vì biết rõ bản chất và tướng trạng ô nhiễm của ái dục thì không bị nó lừa gạt, lôi cuốn, thấy nó đưa đến nhiễm ô ràng buộc, đau khổ và u tối thì sẵn sàng từ bỏ.

Hành giả không nên đè ép cố quên khi thấy mình khởi sinh ái dục mà phải mạnh dạn đối đầu quán sát tường tận nó để đoạn trừ nó. Vì các vấn đề do hành giả cố quên chỉ vô ích trong khi tâm vẫn thấy thích thú hay đau khổ vì nó. Vì các vấn đề do hành giả cố quên chưa giải quyết sẽ dồn chứa lại nơi tâm, lâu ngày trở nên mạnh mẽ. Một ngày nào đó đủ duyên, chúng sẽ bừng dậy. Lúc ấy, hành giả không thể tự chủ được, hoặc chúng cứ âm thầm phá hoại tâm thức hành giả khiến trở nên cuồng si u tối. Một tâm niệm ham muốn, khao khát tiềm tàng lâu ngày, một ý tưởng yêu thương ẩn chứa nhiều tháng năm do sự chèn ép cố quên không chịu quan sát để phá vỡ, đều là mối nguy hại vô cùng.

Đồng thời với việc quan sát ái dục, hành giả cần thường xuyên khởi tâm nguyện cầu sinh Tây phương và tập lối sống không trụ trước, không cố định ở một cảnh, không nương mãi một duyên, không thân không hậu riêng ai, sẵn lòng buông xả những gì mình thích quý, cũng không nên cố thủ ham muốn cái dở xấu, vì ham muốn yêu tiếc vật tốt hay xấu cũng đều là ái dục cả.

Khi đã thấu suốt ái dụcthế gian rồi, tâm hành giả sẽ bình tĩnh, sáng suốt, tự chủ trước các cảnh duyên, không cho say đắm với tất cả người hay vật nào. Nhìn mọi thứ, hành giả đều thấy trong đó có mầm khổ đau, ràng buộc, vô thường, u tối sinh tử, trầm luânhành giả cũng thấy mọi khổ đau của mình và của người, đều có thể trong mọi lúc, mọi nơi luôn luôn nguyện cầu sinh về Tây phương, không nghĩ tưởng gì nữa.

Nên nhớ, khi chưa thấu triệt ái dục, tâm còn quay cuồng với những ham muốn tiếc thương thì còn chướng ngại lớn trong việc tu hành; dù có cố gắng nguyện cầu sinh về Tây phương, cũng khó tránh khỏi bị tâm ái dục ấy làm đình trệ gián đoạn, vì muốn về Tây phương mà cứ nắm cả Ta bà thì làm sao về Tây phương được.

Cũng như muốn kéo cây cho nghiêng về một phía mà cứ để gốc rễ bám cứng vào đất thì làm sao kéo được. Quan sát thấy rõ ái dục để khai phát tâm xả ly thế gian tức là chặt đứt các rễ cây ấy vậy. Có sợ Ta bà mới thật sự thích Tịnh độ, có chán thế gian mới thành tâm cầu về Tây phương.

Tuy nhiên, lúc quan sát ái dục vẫn luôn luôn nguyện sinh Tây phương để gieo trồng sâu hạt giống vãng sinh, đồng thời cũng để trợ giúp hành giả buông xả sự đắm trước thế gian. Vì tuy quán sátái dục, tâm có thể phát sinh xả ly, nhưng do nghiệp ô nhiễm của hành giả nhiều đời huân tập sâu dày và nghị lực của hành giả còn yếm kém, hành giả vẫn còn cảm thấy sung sướng khi tiếp xúc với ái dục. Mặc dù lý trí thì muốn xả bỏ nhưng thói quen vẫn muốn tìm cầu nắm bắt, vả lại cuộc đời luôn có các duyên khiến nghiệp ái dục tăng trưởng lấn áp cả lý trí. Do đó, song song với sự quán sát để xả ly ái, rất cần có chí nguyện vãng sinh cầu giải thoát để giúp hành giả đủ tâm lực dứt khoát thế gian đoạn trừ ái dục.

Nguyện vãng sinh, hành giả phải khởi nguyện liên tục giống như niệm Phật. Hành giả có thể khởi nguyện như thế này:

Nam Mô A Di Đà Phật
Con nguyện sinh về Tây phương Cực lạc

Xin Phật từ bi đến tiếp độ con”.

Hoặc nguyện theo bài kệ:

“Quy mạng lễ A Di Đà Phật

Ở phương Tây thế giới an lành

Con nay xin phát nguyện vãng sinh

Cuối xin đức từ bi tiếp độ”

Hoặc niệm theo các bài sám văn của chư Tổ soạn. Lời nguyện cốt yếu càng đơn giản, càng hướng mạnh mẽ về Tây phương càng tốt.

Với các lời nguyện như thế, hành giả luôn luôn khởi phát nơi tâm, khiến nó ngày càng thấm sâu vào tiềm thức và mạnh mẽ không thay đổi. Một lời nguyền duy nhất như thần chú bất động, hành giả sẽ rèn được tâm vãng sinh kiên cố giống như cây đã nghiêng hẳn về một hướng. Tâm nguyện vững chắc như vậy đã nghiêng về một hướng rồi thì không còn lo bị thế gian ràng buộc. Dù mai kia ngọn lửa vô thường nào thổi lên, cây tâm linh cũng chỉ ngã về phía Tây.

Bất cứ trong hoàn cảnh nào, gặp đối tượng gì cũng chỉ một câu nguyện. Lúc này hành giả không nên bận tâm những vấn đề nào khác. Hãy phó mặc cho tất cả nhân duyên định đoạt. Dù cảnh chướng duyên hay thuận duyên cũng không lo nghĩ. Biết mình nhiều nghiệp chướng và kém phước cũng không nên lo sợ tìm cầu làm các việc để tránh nghiệp hay tạo thêm phước. Phải biết rằng nghiệp quả không thể tránh, hãy bình thản đón nhận, có điều không gây thêm nghiệp chướng nữa mà thôi, vì phải tin tưởng hoàn toàn rằng tâm thệ nguyện này vẫn đủ năng lực giúp hành giả vượt qua mọi dòng nghiệp thế gian.

Ngay cả các việc phước thiện, nếu do nhân duyên đưa đến thì sẵn lòng không từ khước, nhưng hành giả giải thoát không nên chủ tâm tìm việc để làm, vì tất cả đều là thế gian hữu lậu. Phước vô lậutâm giải thoát ở giai đoạn trước, hành giả có thể chuyển lo làm phước để nuôi lớn thiện căn phá trừ ác nghiệp. Nay ở giai đoạn này đặt nặng việc giải thoát, mọi việc lành đều làm với tính cách từ bi tế độ thuận theo nhân duyên, hành giả không làm vì tham muốn phước lạc và dù làm việc gì cũng luôn khởi niệm cầu sinh về Tây phương không gián đoạn. Khởi niệm đến khi nào ở mọi lúc, mọi nơi, mọi đối tượng, tâm hồn chỉ biết có Tây phương. Hướng về người cũng chỉ biết có Tây phương, không còn thích muốn gì nữa, chẳng chán ghét gì nữa. Tâm trong lành với ý niệm Tây phương.

Trong giai đoạn này, hành giả có thể thấy mình còn phan duyên động niệm, tâm thức chưa sáng trong tĩnh lặng, xác thân còn khởi động dục nhiễm. Hành giả không nên quan tâm lo nghĩ về những vấn đề đó, phải biết mình đang thực hành trong giai đoạn rèn chí giải thoát, chưa phải lúc chuyên tu định huệ giải thoát cứu cánh. Do đó, hành giả không nên sợ hãi, lo lắng làm dao động việc tu tập hiện tại. Nếp sống xả ly thế gian, tâm hồn không đắm say ái dục, luôn luôn hướng về Tây phương là cốt yếu của giai đoạn này. Cố gắng nguyện cầu không ngừng đến khi tâm hồn trở nên bình thản với thế gian, không còn biết ghét thương ham muốn, chỉ có Tây phươnglẽ sống, là nguồn hạnh phúc của cuộc đời. Như thế là thành tựu được giai đoạn thứ hai trên con đường về đến Tây phương này.

Từ đây, hành giả có thể an tâm với thánh đạo giải thoát. Niềm an lạc thanh tịnh đã bao trùm cuộc sống hành giả. Hành giả có thể tiến từng bước vững chắc trở về với thanh cảnh giác ngộ tột cùng. Nhờ sự quán xét tường tận ái dục, hành giả có thể tự chủ trước tình cảm, không đắm luyến mặc dù còn rung động trước nó. Người xuất gia không còn sự mê đắm trong vòng tục lụy. Nhờ luôn luôn nguyện sinh Tây phương, chí hướng ngày càng vững mạnh ăn sâu nơi tâm tưởng, con đường Tây phương được thông suốt, hành giả chắc chắn sẽ được vãng sinh.

Chú ý, ở giai đoạn này hành giả vẫn niệm Phật theo thời khóa hoặc thường niệm nhưng chú trọng việc cầu vãng sinh. Có thể chỉ sau vài câu Phật hiệu thì khởi kỳ một lời nguyện và cứ thế hành trì mãi. Ngay ở giai đoạn đầu cũng vậy, cũng vẫn niệm Phậtcầu sinh Tây phương theo thời khóa hoặc thỉnh thoảng khởi tâm niệm Phật cầu nguyện trong các sinh hoạt bình thường, có điều ở giai đoạn đầu thì niệm nguyện để cho tâm được trong lành thuần thiện và không cần chuyên nhất.

Hành giả không nên vì ham thích định tâm hay lười khởi niệm mà bỏ qua hoặc lơ là việc nguyện cầu này. Bỏ qua việc nguyện sinh Tây phương cho dù hành giảchuyên tâm niệm Phật thì cũng khó được vãng sinh. Vì chỉ chuyên tâm niệm Phật, lúc niệm Phật tâm tuy thanh tịnh, quên các duyên ngoài, nhưng tư tưởng ái dục còn mạnh, chí giải thoát còn yếu, sự chuyên niệm ấy cũng khó bền bỉ khi tâm ái dục khởi sinh. Hành giả để gián đoạn việc dụng côngchạy theo ngoại cảnh, hoặc biến việc niệm Phật thành một phương tiện để thành tựu ý tưởng ái dục. Hoặc niệm Phật mà khởi niệm ham thích làm vua, làm quan hay sinh cõi trời này, cõi nước kia. Như vậy, việc niệm Phật trở thành phương tiện để tạo phước hữu lậu thế gian. Đây chính là nguyên nhân làm biết bao người chuyên tu niệm Phật vẫn bị luân hồi. Giống như cái cây không kéo nghiêng hẳn về một phía tốt, cứ để nó nghiêng theo hướng xấu mà nuôi cho cây cao lớn; gặp phải ngọn gió vô thường bật gốc, nó sẽ ngã theo chiều hướng xấu của nó.

Mặc dầutha lực tiếp dẫn, nhưng tâm hành giả chẳng hướng về Tây phương thì tha lực này cũng không làm sao tiếp dẫn được, vì tha lực của chư Phật đây chẳng phải là loại thần lực thế gian của các quỷ thần. Tha lực này bình đẳng, không vọng động, phát xuất từ một linh thể bên ngoài, mà nó khởi nguồn từ tâm ý hành giả, nó tùy thuộc vào tâm lực nguyện cầu của hành giả mà mạnh hay yếu, giống như tiếng vang nơi hang núi. Do đó, hành giả càng khởi tâm nguyện sâu xa thì tha lực càng trở nên mạnh mẽ; còn ngược lại, ít khởi nguyện thì đương nhiên bị yếu kém, yếu kém thì không đưa hành giả về Tây phương được. Chính vì lẽ đó mà có chỗ nói “tha lực tùy thuộc tự lực” hay “tha lực cũng là tự lực”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14667)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46164)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 21031)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 23382)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 18891)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 15394)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 46649)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 15282)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 42581)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13077)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 33187)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 51199)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 6590)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 13098)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 29301)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 34339)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 23575)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 30331)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30007)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 32637)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 10551)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 58565)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 14165)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 11349)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 30953)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25265)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22746)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 33116)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 17659)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 42097)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45655)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32057)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11285)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 27325)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17739)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 12231)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 29099)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28229)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 22719)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 17304)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11872)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34678)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 26302)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 29066)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 13165)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 28900)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 18717)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 46316)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 13799)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 29975)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 22794)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 12507)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 37229)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 36889)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant