Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương III: Hoạn Nạn Do Nghi Hoặc

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11020)
Chương III: Hoạn Nạn Do Nghi Hoặc

DU TÂM AN LẠC ĐẠO
Tác Giả: Sư Nguyên Hiểu nước Tân-La -Tỳ Kheo Thích Giác Chính dịch Việt
Nhà xuất bản Fahasa 2007

Chương III
Hoạn Nạn Do Nghi Hoặc

Trước hết trình bày về cảnh sở nghi, tiếp theophương pháp đối trị nghi tưởng. Sau cùng, bàn về những điểm hơn và kém của hóa sinhthai sinh về cõi kia.

* Thứ nhất, nói về cảnh sở nghi, nếu có người với tâm nghi hoặc mà tu các công đức để nguyện được sinh về cõi kia thì những người nầy không hiểu rõ trí Phật, trí Bất Tư Nghị, trí Bất Khả Xứng, Quảng trí Đại Thừa, Thắng trí Vô Đẳng Vô Luân Tối Thượng. Họ nghi ngờ, không tin có những trí này, nhưng vẫn tin có tội và phước, tu tập thiện nghiệp, nguyện sinh về cõi kia. Đây là hạng chúng sinh được sinh về cung điện cõi kia, nhưng suốt 500 năm không được nghe đến Tam Bảo. Chỗ sinh về ấy gọi là biên địa.

Bất Tư Nghị tríThành Sở Tác trí. Trí này có khả năng tạo ra những việc không thể nghĩ bàn, như thân cao không quá một trượng sáu mà cũng không thể thấy được đỉnh đầu; dung lượng không bằng lỗ chân lông mà có thể bao trùm khắp mười phương thế giới; một niệm xưng danh hiệu Phật mà có thể diệt trừ tội nặng nhiều kiếp; mười niệm nhớ nghĩ công Đức Phật mà có thể sinh về Báo độ thù thắng ngoài ba cõi. Những việc như thế chẳng thể suy lường được, cho nên gọi là Bất Tư Nghị trí.

Bất Khả Xứng trí là Diệu Quán Sát trí. Trí này quán sát cảnh không thể nghĩ bàn, nghĩa là tất cả pháp như huyễn như mộng, chẳng có chẳng không, lìa ngôn ngữ, bặt nghĩ suy. Người chấp vào ngôn ngữ thì chẳng thể suy lường được, cho nên gọi là Bất Khả Xứng trí.

Đại Thừa Quảng tríBình Đẳng Tánh trí. Trí này rộng lớn, không đồng với Tiểu thừa. Vì vô ngã, cho nên đều là ngã; vì đều là ngã, nên đều bình đẳng nhiếp thọ. Do trí lực đồng thể, nên chuyên chở khắp tất cả chúng sinh mà đưa đến Vô Thượng Bồ-đề, cho nên gọi là Đại Thừa Quảng trí.

Vô Đẳng Vô Luân Tối Thượng Thắng trí chínhĐại Viên Cảnh trí của Như Lai, trước chuyển bổn thức, sau trở về nguồn tâm. Chiếu soi tất cả nên gọi là Đại Viên Cảnh trí. Trong trí này có năm thù thắng:

1. Vô đẳng: như Giải thoát thân thì Nhị thừa cùng được, còn Đại Viên Cảnh trí chính là Pháp thân, Nhị thừa chẳng thể được.

2. Vô luân: như ba trí trước, Bồ-tát dần dần chứng đắc, còn Đại Viên Cảnh trí chỉ có Phật mới chứng, không ai sánh bằng.

3. Tối: vượt hẳn Bất Tư Nghị trí.

4. Thượng: hơn hẳn Bất Khả Xứng trí

5. Thắng: rộng lớn hơn Đại Thừa Quảng trí.

Do năm thù thắng này, cho nên gọi là Vô Đẳng Vô Luân Tối Thượng Thắng trí.

Đây là trình bày bốn cảnh nghi do mê muội.

* Thứ hai, trình bày về phương pháp đối trị nghi hoặc. Như có người tâm không ngay thẳng, tà kiến ngã mạn, tâm đạo cạn mỏng, không hiểu bốn trí mà khởi bốn nghi.

Một là nghi những việc làm của Thành Sở Tác trí. Đó là khi nghe kinh nói: “Người niệm Phật mười niệm thì được sinh về cõi Cực Lạc”, do không hiểu rõ nên sinh nghi hoặc mà cho rằng kinh Phật có nói thiện ác nghiệp đạo, tội phước không mất, nếu nặng thì bị trở ngại. Vậy, một người suốt đời làm ác, chỉ nhờ mười niệm, làm sao có thể diệt hết các tội, vãng sinh Cực Lạc, nhập vào chánh định, vĩnh viễn lìa ba đường ác, cuối cùng chứng quả Bất thoái được? Lại nữa, từ vô thỉ đến nay khởi các phiền não, trôi lăn trong ba cõi[1], trói buộc lẫn nhau, nếu không đoạn trừ Nhị luân phiền não[2] thì làm sao chỉ nhờ mười niệm để ra khỏi ba cõi được? Vì muốn diệt trừ mối nghi do tà kiến này, nên nêu ra Bất Tư Nghì trí. Muốn hiển bày trí huệ Phậtsức mạnh rộng lớn, nên lấy gần làm xa, lấy xa làm gần; biến nặng thành nhẹ, biến nhẹ thành nặng. Tuy thật có việc này, nhưng không thể suy lường được. Vì thế, chỉ nên một mực tin theo kinh nói, không nên dùng trí thức cạn cợt của mình để suy lường. Như muốn sinh lòng tin, cần phải nhờ vào sự mà diễn đạt, dụ dẫn. Thí như ngàn năm góp chứa củi cao cả trăm thước, nhưng chỉ một ngọn lửa nhỏ thiêu đốt trong một ngày là hết sạch. Vậy đâu thể cho rằng làm sao ngàn năm chứa củi mà có thể thiêu sạch trong một ngày được? Lại nữa, ví như một người què mà tự gắng sức đi, cần phải trải qua nhiều ngày mới được một Do-tuần; còn nếu đi thuyền, nhờ vào sức gió thì trong khoảng một ngày có thể đi đến ngàn dặm. Vậy đâu thể cho rằng làm sao người què mà một ngày đi đến ngàn dặm được? Sức của người lái thuyền ở thế gian còn làm được việc vượt ngoài suy nghĩ như thế, huống gì thần lực của Đức Như Lai Pháp Vương lại không thể làm được việc không thể nghĩ bàn sao? Đây là pháp đối trị mối nghi thứ nhất.

Mối nghi thứ hai là nghi về cảnh sở quán của Diệu Quan Sát trí. Trong kinh khen ngợi trí huệ PhậtDiệu Quan Sát trí. Các pháp chẳng phải có chẳng phải không, xa lìa Nhị biên[3], không chấp Trung đạo[4], do không hiểu rõ nên sinh nghi hoặc mà cho rằng: Như nay thấy biết vật nặng thì hạ xuống, vật nhẹ thì cất lên. Nếu như nói nhẹ mà không cất lên, nặng mà không hạ xuống, như thế là vô nghĩa. Pháp do nhân duyên sinh cũng như thế. Nếu thật chẳng phải không thì có, nếu chẳng phải có thì không. Nếu nói chẳng phải không mà không rơi vào có, chẳng phải có mà không rơi vào không, thì cũng giống như nặng mà không hạ xuống, nhẹ mà không cất lên mà thôi. Cho nên, phải biết thuyết này có lời mà không thật. Tính lường như thế tức rơi vào biên kiến. Hoặc chấp Y Tha Khởi là thật có thì rơi vào Tăng ích; hoặc chấp Duyên sinh hoàn toàn không thì rơi vào Tổn giảm[5]; hoặc cho rằng Tục đế là có, Chân đế là không, chấp vào Nhị biên thì rơi vào Tương vi luận; hoặc cho rằng các pháp chẳng có chẳng không, chấp vào Nhất trung thì rơi vào Ngu si luận. Thích Luận[6] chép: “Chẳng có chẳng không là Ngu si luận. Để đối trị kiến chấp sai trái này, cho nên thiết lập Bất Khả Xứng trí, đồng thời hiển bày các pháp rất sâu xa, lìa ngôn ngữ, bặt nghĩ suy, không thể suy nghĩ tính lường, theo lời mà hiểu nghĩa”. Như luận Du-già nói: “Thế nào là các pháp sâu kín khó thấy? Đó là tất cả pháp. Vì sao? Vì pháp sâu kín khó thấy bậc nhất là tự tánh của các pháp. Tự tánh này là bặt hý luận, vượt ngôn ngữ. Nhưng nhờ ngôn ngữ làm chỗ y cứ, nên mới có thể nắm bắt, có thể nhìn thấy, có thể cảm nhận, cho nên gọi là các pháp sâu kín khó thấy. Đây là pháp đối trị mối nghi thứ hai.

Mối nghi thứ ba là nghi về nghĩa Bình Đẳng Tánh trí là ngang bằng. Như trong kinh nói: “Tất cả chúng sinh đều có tâm thức. Hễ loài có tâm thức thì đều chứng được Bồ-đề”. Do không hiểu nên sinh ra mối nghi mà cho rằng: “Nếu nói chúng sinh đều có Phật tánh, đều được độ hết, đều chứng Vô Thượng Bồ-đề, thế thì chúng sinh tuy nhiều nhưng ắt sẽ hết. Vậy Đức Phật sau cùng không có đức lợi tha, vì không còn chúng sinh để giáo hóa, nên nhất định sẽ không thành Phật, vì công đức bị thiếu sót. Không có công đức giáo hóa thì không hợp với lý đạo. Thiếu khuyết công đứcthành Phật làm gì có lý này!”. Suy nghĩ sai lệch như thế rồi phỉ báng Đại thừa, không tin vào ý bình đẳng được độ. Vì để đối trị mối nghi chấp nhỏ hẹp như thế, cho nên thiết lập Đại Thừa Quảng trí. Muốn trình bày Phật trí rộng lớn, chuyên chở tất cả chúng sinh nhập vào Vô dư, cho nên gọi là Đại thừa. Khả năng chuyên chở của trí này không giới hạn, không bờ mé, cho nên gọi là Quảng trí. Sở dĩ như vậy là vì hư không vô biên, chúng sinh vô số lượng, ba đời không giới hạn, sinh tử không đầu không cuối. Chúng sinh đã không có khởi đầu, không có cuối cùng, thì chư Phật cũng không có khởi đầu, không có cuối cùng. Nếu chư Phật đã có khởi đầu thành tựu thì trước đó không có quả Phật, không có Thánh giáo. Vì không có Thánh giáo cho nên không được nghe pháp để huân tập. Không được nghe pháp để huân tậpthành Phật thì không có nhân mà có quả. Đây là chỉ có lời nói mà không có thật. Từ đạo lý này suy ra thì chư Phật không có khởi đầu. Tuy thật không có khởi đầu, nhưng không có một Đức Phật nào mà vốn không là phàm phu. Tuy là phàm phu, mà liên tục chuyển tiến không có khởi đầu. Từ đây suy ra biết được chúng sinh không có cuối cùng. Tuy thật khôngcuối cùng, nhưng tất cả về sau đều được thành Phật. Tuy hết thảy đều được thành Phật, mà liên tục chuyển tiến không có cuối cùng. Cho nên, cần phải tin Bình Đẳng Tánh trí độ khắp tất cả, không có giới hạn. Do đó, mới lập ra Đại Thừa Quảng trí để đối trị với mối nghi thứ ba này.

Mối nghi thứ tư là nghi về nghĩa Đại Viên Cảnh trí biến chiếu cùng khắp tất cả các cảnh. Nghi rằng: Vì hư không vô biên nên thế giới cũng vô biên. Vì thế giới vô biên nên chúng sinh cũng vô biên. Vì chúng sinh vô biên nên căn, dục, tánh v.v… đều không bờ mé, thì làm sao có thể biết hết được? Phải chăng nên tu tập dần dần mà biết được, hay do không cần tuđột nhiên chiếu rõ? Nếu không cần tu tập mà đột nhiên chiếu rõ thì tất cả phàm phu đều được chiếu soi như nhau, vì tất cả đều không tu tập, vì không có nhân khác. Nếu thứ lớp tu tập cuối cùng biết được hết thì tất cả cảnh đều có bờ mé, giới hạn. Không bờ mé mà có cùng tận thì thật không đúng với lý vậy! Tiến thoái như vậy đều không thành lập được, làm sao chiếu khắp được mà gọi là Nhất Thiết Chủng trí? Để đối trị lại hai mối nghi này, cho nên lập ra Vô Đẳng Vô Luân Tối Thượng Thắng trí. Đại Viên Cảnh trí này hơn hẳn ba trí kia, vượt ngoài hai đế, có một không hai, vượt ngoài Hai quan[7], siêu việt cả Vô quan. Chỉ nên tin theo, không thể so lường, cho nên gọi là Tối Thượng Thắng trí.

Tại sao phải khởi lòng tin theo? Thí như thế giới vô biên, không vượt ra ngoài hư không, vạn cảnh không có giới hạn, bao hàm trong một nguồn tâm. Phật trí lìa tướng, quy về nguồn nhất tâm. Trí và nguồn nhất tâm dung hòa nhau không khác. Vì Thỉ giác[8] tức đồng với Bản giác[9], cho nên không có vạn cảnh vượt ngoài trí. Từ đạo lý này suy ra thì trí vô hạn thấu suốt tất cả cảnh, vì vô biên trí chiếu soi vô biên cảnh. Như luận Khởi Tín nói: “Tất cả cảnh giới vốn từ nhất tâm, lìa niệm. Vì chúng sinh vọng thấy cảnh giới, cho nên tâm có phạm vi, giới hạn. Do vọng khởi niệm, không hợp với pháp tánh, cho nên không thể hiểu rõ. Chư Phật Như Lai lìa kiến tướng, không chỗ nào không bao trùm, vì tâm chân thật thì thể tánh của các pháp chiếu soi tất cả pháp vọng, có dụng đại trí, vô lượng phương tiện, tùy theo chỗ thích ứng của chúng sinh mà khai thị tất cả pháp nghĩa. Cho nên được gọi là Nhất Thiết Chủng trí”. Đó là Vô Đẳng Vô Luân Tối Thượng Thắng trí. Vì không có chỗ thấy, nên không có chỗ nào không thấy. Như thế là đối trị mối nghi thứ tư.

Nếu không đạt được ý, theo lời mà hiểu nghĩa, thì Hữu biên hay Vô biên đều là lỗi lầm, hay căn cứ vào nghĩa Phi hữu biên mà giả lập nghĩa Vô biên. Nếu người không giải quyết bốn mối nghi thì tuy có sinh về cõi kia cũng vẫn ở biên địa[10]. Như có người mắt tâm chưa sáng, tuy chưa hiểu rõ cảnh giới của bốn trí nêu trên, mà tự khiêm, ngưỡng cầu Như Lai, một mực tín phục Phật pháp. Những người như thế, tùy phẩm hạnh tu hành của họ mà được sinh về cõi kia, không ở biên địa. Người sinh về biên địa thuộc một loại riêng, chẳng thuộc chín phẩm. Vì thế không nên vọng sinh nghi hoặc.

* Thứ ba, trình bày về điểm hơn và kém của việc hóa sinh[11] và thai sinh về cõi kia.

Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Bấy giờ, Phật bảo Tôn giả A-nan và Bồ-tát Di-lặc rằng:

- Các ông có thấy cõi nước kia, từ đất lên đến cõi trời Tịnh Cư, các vật trong đó tự nhiên vi diệu, thanh tịnh, trang nghiêm không?

- Bạch Thế Tôn! Có thấy! – A-nan thưa.

- Các ông có nghe tiếng lớn của Đức Phật Vô Lượng Thọ truyền đi khắp tất cả thế giới để giáo hóa chúng sinh chăng?

- Bạch Thế Tôn! Có nghe!

- Các ông có thấy chúng sinh cõi kia ở trong cung điện bằng bảy báu trăm ngàn do-tuần[12], cúng dường chư Phật khắp mười phương hoàn toàn không chướng ngại chăng?

- Bạch Thế Tôn! Có thấy!

- Chúng sinh cõi ấy có loài thai sinh, các ông có biết không?

- Bạch Thế Tôn! Có biết!

- Loài thai sinh đó ở trong cung điện, hoặc một trăm do-tuần, hoặc năm trăm do-tuần. Mỗi chúng sinh ở trong đó đều tự nhiên thọ hưởng khoái lạc giống như trên cõi trời Đao-lợi.

Lúc đó, bồ-tát Di-lặc bạch Phật rằng:

- Bạch đức Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà chúng sinh cõi kia có người thai sinh, có người hóa sinh?

Phật bảo bồ-tát Di-lặc rằng:

- Có những chúng sinh dùng tâm nghi hoặc để tu các công đức, nguyện sinh về cõi đó. Họ không hiểu rõ, lại còn sinh tâm nghi ngờ Phật trí, Bất Tư Nghì trí, Bất Khả Xứng trí, Đại Thừa Quảng trí, Vô Đẳng Vô Luân Tối Thượng Thắng trí, nhưng do tin có tội phước, tu tập các pháp thiện, nguyện sinh về cõi nước đó, nên họ được sinh vào cung điện kia, sống đến năm trăm tuổi, mà vẫn không được thấy Phật, không được nghe kinh pháp, không thấy Bồ-tát, Thanh văn và các Thánh chúng. Vì thế, những chúng sinh sinh trong cõi nước kia được gọi là Thai sinh. Nếu có chúng sinh tin hiểu Phật trí, cho đến Thắng trí, tạo các công đức, phát tín tâm hồi hướng Bồ-đề, thì các chúng sinh này tự nhiên được hóa sinh trong hoa bảy báu, ngồi kiết già, trong khoảng chớp mắt, thân tướng trang nghiêm, thành tựu đầy đủ các công đức, trí huệ giống như Bồ-tát. Lại nữa, bồ-tát Di-lặc! Các bậc đại Bồ-tát ở cõi Phật phương khác khởi tâm muốn được diện kiến, cung kính cúng dường Đức Phật Vô Lượng Thọ và chúng Bồ-tát, Thanh văn. Các Bồ-tát ở cõi ấy sau khi mạng chung cũng được sinh về cõi Phật Vô Lượng Thọ, tự nhiên hóa sinh trong hoa bảy báu. Di-lặc nên biết, những người được tự nhiên hóa sinh kia đều có trí huệ tối thắng, còn những người bị thai sinh đều không có trí huệ, suốt năm trăm năm không được gặp Phật, không được nghe kinh pháp, không gặp Bồ-tát và chúng Thanh văn, không được cúng dường chư Phật, không biết pháp thức của Bồ-tát, không được tu tập công đức. Nên biết rằng những người này, trong đời trước do nghi hoặc mà dẫn đến không có trí huệ. Thí như Chuyển Luân Thánh vương có ngục tù bằng bảy báu, mọi thứ đều trang nghiêm, xếp đặt giường mùng, treo các cờ lọng. Nếu các Vương tử phạm tội, liền bị vua cha giam vào trong đó, khóa bằng xích vàng, canh gác nghiêm ngặt, rồi cung cấp món ăn thức uống, y phục chăn mền, đầy đủ các thứ hương hoa kỹ nhạc, sống giống như Chuyển Luân vương không thiếu một vật gì. Ý ông nghĩ sao? Các vị Vương tử này có cam lòng thọ nhận thú vui nơi ấy không?

Bồ-tát Di-lặc đáp rằng:

- Dạ không! Họ chỉ muốn tìm đủ mọi cách, cầu các thế lực để mong được ra khỏi chốn ấy.

Phật bảo bồ-tát Di-lặc:

- Các chúng sinh này lại cũng như thế! Vì nghi hoặc Phật trí mà bị sinh vào cung điện thai sinh bảy báu. Tuy không có hình phạt cũng như không có một niệm ác, nhưng họ có nỗi khổ là trong năm trăm năm không gặp được Tam Bảo, không được cúng dường, tu tập các pháp thiện. Mặc dù có nhiều thú vui, nhưng không vui bằng cõi Phật Vô Lượng Thọ. Nếu chúng sinh này biết được gốc tội xưa của mình, tự mình ăn năn hối cải, cầu vượt ra khỏi chỗ đó, lập tức được sinh về cõi Phật Vô Lượng Thọ như ý muốn để cung kính cúng dường, đi khắp vô lượng vô số cõi Phật khác để tu tạo các công đức. Di-lặc nên biết rằng, nếu như có Bồ-tát nào sinh tâm nghi hoặc liền mất đi lợi ích lớn. Do đó, cần phải tin rõ trí huệ vô thượng của chư Phật”. Lời của Như Lai chân thật, nếu nghi ngờ thì sau ăn năn không kịp, cần phải thận trọng!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14679)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46171)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 21047)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 23393)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 18899)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 15396)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 46659)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 15294)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 42587)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13092)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 33193)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 51212)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 6592)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 13111)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 29316)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 34361)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 23584)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 30349)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30021)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 32640)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 10553)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 58588)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 14171)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 11358)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 30962)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25269)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22749)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 33119)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 17660)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 42101)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45660)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32058)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11287)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 27328)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17741)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 12234)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 29114)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28241)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 22725)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 17308)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11873)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34679)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 26305)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 29068)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 13168)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 28905)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 18718)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 46318)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 13800)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 29977)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 22803)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 12513)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 37241)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 36898)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant