Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

4. Chương Thứ Tư

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 12716)
4. Chương Thứ Tư
TỊNH ĐỘ GIÁO KHÁI LUẬN

Nguyên tác Nhật ngữ: Vọng Nguyệt Tín Hanh

 Hán dịch: Ấn Hải - Việt dịch: Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ


Chương thứ tư

Tịnh độ của Phật A-súcbản nguyện của Ngài.

Tiết thứ nhất

Tín ngưỡng Phật A-súc

Chư Phật hiện tại xuất hiện trong mười phương, có lẽ tín ngưỡng Phật A-di-đà và Phật A-súc được lưu hành vào thời đại sớm nhất, tình hình phát triển trước sau của hai vị Phật này như thế nào, theo trong văn hiến hiện nay rất khó khảo cứu và xác định, rất có thể cùng một thời đại, do địa phương bất đồng nên tín ngưỡng cũng không nhất định.

Trong phẩm Hằng-kiệt ưu-bà-di, kinh Đạo hành bát-nhã quyển 6, ghi lại tín ngưỡng Phật A-súc được lưu hành rất sớm: Sự việc Hằng-kiệt ưu-bà-di vào đời vị lai xả bỏ thân nữ, sanh về cõi Phật A-súc, tường thuật lại việc Phật A-súcnhân địa đã phát nguyệnkinh A-súc Phật quốc ghi lại cõi Phật trang nghiêm v.v…Tương truyền bản kinh này do ngài Chi Sấm dịch vào đời Hậu Hán. Không những như thế, trong phẩm A-súc Phật quốc, kinh Duy-ma-cật sở thuyết quyển hạ ghi: “Bồ-tát Duy-ma-cật từ thế giới Diệu Hỷ của Phật A-súc đến sanh trong cõi Ta-bà này”. Kinh Thủ-lăng-nghiêm tam-muội quyển thượng ghi: “Thiên tử Hiện Ý ở trong pháp hội này, cũng đến từ cõi Phật A-súc”. Các kinh khác như phẩm Vãng sanh trong kinh Đại phẩm bát-nhã quyển 2; phẩm Pháp cúng dường trong kinh Hải long vương quyển 4; phẩm Khẩn-na-la trong kinh bồ-tát xứ thai quyển 7; kinh Tu-lại; phẩm Kim cang thân trong kinh Đại bát niết-bàn quyển 2; kinh Đại phương đẳng đà-la-ni quyển 3 v.v…đều ghi lại sự việc có rất nhiều người vãng sanh về cõi Phật A-súc. Như thế, hai Đức Phật này đều là đối tượng được mọi người sùng bái sớm nhất.

Riêng kinh A-súc Phật quốc ghi lại Tịnh độ của Phật A-súckinh Đại A-di-đà ghi lại tỉ mỉ Tịnh độ của Phật A-di-đà, so sánh thời gian xuất hiện hai kinh này, mọi người cho rằng kinh A-súc Phật quốc biên soạn sớm hơn kinh Đại A-di-đà. Cho nên, kinh A-súc Phật quốc hiện còn trong các kinh có liên quan đến Tịnh độ, có lẽ được biên soạn sớm nhất. Sự việc được ghi lại trong kinh này cho chúng ta biết ngay là, bắt đầu thời đại Phật giáo Đại thừa có rất nhiều tư tưởng về Tịnh độ.

 

Tiết thứ hai

Tịnh độ của Phật A-súc

Nay y theo kinh A-súc Phật quốc thuật lại sơ lược nhân vị của Phật A-súc và các thứ trang nghiêmTịnh độ. Trước tiên kinh này ghi: Cách Diêm-phù-đề này một nghìn thế giới ở phương đông, có cõi nước tên là A-tỉ-la-đề (Abhirati, Hán dịch là Diệu Thiện, Diệu Lạc, Hoan Hỷ). Trong cõi này, xưa kiaNhư Lai Đại Mục xuất hiện, thuyết sáu pháp ba-la-mật cho các bồ-tát. Lúc đó, có một vị tỳ-kheo học đạo bồ-tát, mong cầu thành Phật, luôn vâng theo lời Đức Như Lai dạy, phát nguyện không bao giờ tức giận, nên được tên A-súc (Akṣobhya). A-súc, Hán dịch là Vô Nộ, Bất Động. Vị tỳ-kheo này nhờ tu nhiều hạnh nguyện, nên được thành Phật bên cây đạo tràng bằng bảy báu, ở cõi A-tỉ-la-đề.

Kế đến, kinh này lại nói về tướng trạng thanh tịnh trang nghiêmTịnh độ. Cõi Phật A-súc không có ba đường ác như địa ngục v.v…Tất cả mọi người đều làm việc thiện, đất đai bằng phẳng, không có đồi núi, hang khe, đá sỏi, núi non sạt lở. Mặt đất mềm mại như tơ lụa; nếu có người đi trên đó, tuy lún xuống, nhưng khi giở chân lên trở lại như cũ.

Cõi nước này không có ba thứ bệnh trúng gió, cảm lạnh, thời khí. Tất cả nhân dân đều cùng dung nhan xinh đẹp, không có dữ tợn, cũng không có xấu xí, dâm, nộ, si rất nhẹ; cũng không có việc bắt bớ, giam cầm. Cõi nước này không có các học thuyết sai lầm của ngoại đạo, giống như châu Uất-đan-việt, cũng không có vua cai trị. Khắp nơi cây cối mọc tươi tốt, thường nở hoa quanh năm. Lại có cây tên ba-kiếp rất kỳ lạ, cây này sanh ra các thứ y phục, chuỗi ngọc. Y phục ấy mới toanh đẹp đẽ, được ướp mùi hương lạ. Nếu mọi người muốn ăn uống thì thức ăn hiện ra trước mặt; giống như cõi trời Đao-lợi, thức ăn này thơm ngon, hơn cả cõi trời, cõi người. Nhà ở của nhân dân đều trang hoàng bằng bảy thứ báu, chung quanh có hồ, nước trong hồ tràn đầy có tám vị đặc biệt. Khi nhân dân muốn tắm thì hồ tắm trong sạch tự nhiên hiện ra.

Cây tô-mạn-na (Sumana) và cây đa-la (Tala) mọc thành hàng, khi gió thổi nhẹ phát ra năm loại âm thanh trầm bổng du dương, hay hơn âm nhạcthế giới Ta-bà này. Trong cõi nước ấy không có giá rét, cũng không có nóng bức, gió thổi nhè nhẹ làm mát mẻ sảng khoái. Những cô gái trong nước giống như thiên nữ, đẹp hơn ngọc nữ bảo của Chuyển luân thánh vương gấp trăm vạn ức lần. Những cô gái này không có những lỗi lầm như nói lời ác, ganh tỵ; chẳng đắm nhiễm vào việc tà. Đời sống nhân dân không có chợ quán mua bán, cũng không làm nghề cày cấy, gieo trồng. Mọi người chỉ cùng một hỉ lạc, trụ trong tịch định.

Đức Phật A-súc thường phóng ánh sáng chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới, che khuất ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Khi Đức Phật đó đi kinh hành, trên mặt đất tự nhiên mọc lên hoa sen sắc vàng nghìn cánh. Lúc Ngài thuyết pháp, có vô số nhân dân đến lắng nghe; số người đắc quả Tu-đà-hoàn, cho đến đắc quả A-la-hán rất đông. Lại cõi này có ba cầu thang báu bằng vàng, bạc, lưu ly thông lên cõi trời Đao-lợi. Chư thiêncõi trời Đao-lợi thường xuống bằng cầu thang báu này để cúng dường Đức Phật A-súc. Người mới sanh về cõi nước này đều đắc A-duy-việt-trí, dần dần có thể thấy ngần ấy vạn ức chư Phật, tự mình ở trong nước trồng các cội công đức. Có sự sai khác giữa bồ-tát xuất giatại gia, bồ-tát xuất gia không được ở nhà, bồ-tát tại gia được ở trong nhà cao cửa rộng. Đức Phật A-súc giáo hóa khắp nhân dân cõi nước này xong, sau đó nhập Niết-bàn. Khi Phật nhập Niết-bàn rồi, vị kế tiếp được bổ xứ thành Phật, hiệu là Kim Sắc Liên Hoa Như Lai, lại giáo hóa tất cả chúng sanh như Phật A-súc. Kinh này có bản dịch khác là hội Bất Động Như Lai trong kinh Đại bảo tích. Kinh Bi hoa quyển 4, cũng nói giống như kinh này.

Tiết thứ ba

Bản nguyện của Phật A-súc

Mặc dù, kinh A-súc Phật quốc chưa liệt kê từng bản nguyện đã phát ở nhân vị như kinh Đại A-di-đà, nhưng qua tường thuật trong kinh A-súc Phật quốc chúng ta thấy có căn cứ hoàn toàn nơi giáo lý cõi Phật thanh tịnh. Trong việc ghi chép về Tịnh độ trang nghiêm, chỗ nào cũng biểu hiện cõi Phật A-súc tốt đẹp thanh tịnh. Kinh ghi lại xưa kia Phật A-súc phát đại nguyện, nói đến dự tưởng về tư tưởng bản nguyện. Hiện nay, căn cứ vào sự ghi chép về phát nguyện ở trên, xin thuật bản nguyện của Ngài như sau:

Cõi Phật A-súc không có ba đường ác địa ngục v.v…tức là nguyện không có ba đường ác; tất cả mọi người đều làm việc thiện, là nguyện không phạm mười điều ác; đất đai ở cõi Ngài bằng phẳng là nguyện đất đai bằng phẳng, không có cấu uế; không có ba thứ bệnh tật trúng gió, cảm lạnh, thời khí, là nguyện không có dịch bệnh; không có người xấu, là nguyện mọi người đều xinh đẹp; không có người thấp hèn, là nguyện cùng một giai cấp; dâm, nộ si nhẹ là nguyện không có ba độc; không có các ngoại đạo tà kiến là nguyện không có tà tụ; không có vua cai trị là nguyện trong nước không có vua; cây cối sanh ra y phục, chuỗi ngọc là nguyện y phục tự nhiên có đầy đủ; thức ăn uống trong nước tự nhiên có đầy đủ là nguyện ăn uống tự nhiên có đầy đủ; nhà cửa đều làm bằng bảy thứ báu trang nghiêm là nguyện nhà cửa tự nhiên tốt đẹp; nước trong hồ có tám vị đặc biệt là nguyện nước trong hồ có tám vị đặc biệt; khi gió thổi nhẹ qua các hàng cây phát ra âm thanh trầm bổng du dương là nguyện thường có nhạc trời trổi lên; ánh sáng của Phật A-súc chiếu khắp đại thiên thế giới là nguyện ánh sáng vô lượng; người sống trong cõi nước Ngài đều đắc A-duy-việt-trí là nguyện đắc Bất thoái chuyển; mọi người ở cõi chư Phật trồng các cội công đức là nguyện trồng đầy đủ căn lành; cây đạo tràng ở cõi Ngài có bảy thứ báu là nguyện thấy cây đạo tràng. Bốn nguyện là không có ba đường ác, không có dịch bệnh, ăn uống tự nhiên, nước có tám vị đặc biệt ở trong mười tám nguyện này, đồng nghĩa với bốn nguyện trong kinh Đạo hành bát-nhã và mười nguyện: không phạm mười điều ác, đất đai bằng phẳng không có cấu uế, mọi người đều xinh đẹp, cùng một giai cấp, không có tà tụ, trong nước không có vua, y phục tự nhiên, ánh sáng vô lượng, đầy đủ căn lành v.v…đại khái giống với các nguyện trong kinh Phóng quang bát-nhã. Qua sự đối chiếu, chúng ta có thể biết giữa các kinh điển này có tính liên quan với nhau.

Tiết thứ tư

Căn cứ của thuyết Tịnh độ Phật A-súc

Kinh A-súc Phật quốc có lẽ là kinh điển nói về Tịnh độ của chư Phật ở vào thời kỳ sớm nhất. Tư tưởng này đại kháiđơn thuần, đồng thời cũng hiện thực, không có lý tưởng hóa. Nghĩa là những việc như cây cối sanh ra y phục, chuỗi ngọc, người nữ mang thai, nhân dân ca hát, vui chơi, sự khác biệt bồ-tát xuất gia và bồ-tát tại gia. Bồ-tát tại gia được ở nhà cao cửa rộng, điều này dường như hoàn toàn không giống thế giới Ta-bà. Đặc biệt là lấy y phục, chuỗi ngọc từ trên cây; đất cõi ấy mềm mại, khi đi lún xuống, sau đó trở lại như cũ. Trong nước không có vua, đời sống nhân dân vui hòa, đầy đủ vật dụng. Ai nấy đều xinh đẹp, không có sai khác đẹp xấu, hoàn toàn phù hợp truyền thuyết dân tộc Aryan sống vào thời cổ đại ở Ấn Độ, ôm ấp lý tưởng hướng về châu Uất-đơn-việt. Phẩm Uất-đơn-viết trong kinh Đại lâu thán quyển 1 và kinh Thế kỷ trong Trường A-hàm đều nói như vậy.

Lại các cô gái trong cõi Phật A-súc xinh đẹp hơn ngọc nữ bảo của Chuyển luân thánh vương. Các cô gái đó không có những lầm lỗi như nói lời ác, ganh tị. Nhưng nói việc nhân dân trong nước mang thai là còn có ái dục. Kinh Phóng quang bát-nhã lập ra nguyện không có ái dục, nên được hóa sanh. Kinh Đại A-di-đà lập ra nguyện chuyển nữ thành nam, nhất định là đem kinh này sửa đổi thêm cho hoàn thiện hơn mà thành.

Lại kinh này ghi có ba cầu thang bằng chất báu bắc lên đến cõi trời Đao-lợi. Chư thiêncõi trời theo ba cầu thang báu này xuống đến trước Phật A-súc nghe pháp tu tậpcúng dường. Điều này căn cứ câu chuyện vào mùa an cư, Đức Phật Thích-ca lên cõi trời Đao-lợi thuyết pháp cho mẫu hậu là phu nhân Ma-ha-ma-da xong, lúc Ngài trở về Diêm-phù-đề thì hiện ra ba cầu thang báu, Đức Phật Thích-ca đi cầu thang báu ở giữa trở về mặt đất. Chuyện này đều được ghi trong các kinh như kinh Nghĩa túc quyển hạ, kinh Tăng nhất A-hàm quyển 28, kinh Soạn tập bách duyên quyển 9.

Các hình ảnh này được khắc thành phù điêu trên lan can của tháp Ba-lỗ-bồ-đa, theo truyền thuyết kể lại thì đây là câu chuyện cổ rất nổi tiếng đương thời; hiện nay lấy đây làm một loại trang nghiêm cõi Phật A-súc. Lại nói cây đạo tràngcõi Phật A-súc là do bảy báu hợp thành, cây cao một do-tuần, cành lá sum sê tươi tốt, che phủ một do-tuần. Chung quanh cây đạo tràng có lan can bốn mươi do-tuần. Chúng ta không nghi ngờ điều này, có lẽ đây là cây bồ-đề ở Phật-đà-già-da, mục tiêu được rất nhiều người thời bấy giờ sùng kính mà nêu ra. Kinh Vô Lượng Thọ quyển hạ ghi: “Tịnh độ của Phật Di-đà có cây đạo tràng, cao bốn trăm vạn dặm”, đủ thấy cũng là do đây mà triển khai.

Lại nữa, người sanh về cõi Phật A-súc đều đắc A-duy-việt-trí. Bởi vì, khoảng thời kỳ đầu, đệ tử Phật giáo Đại thừa cho rằng chứng Bất thoái chuyển rất là rất quan trọng. Thuyết sau khi Phật A-súc nhập Niết-bàn, vị kế tiếp được bổ xứ thành Phật hiệu là Kim Sắc Liên Hoa Như Lai. Chúng ta cũng có thể nói đây là thuyết kế thừa tương lai Phật Di-lặc sẽ xuất hiện.

Do đây, chúng ta có thể biết việc ghi chép lại có liên quan đến Tịnh độ Phật A-súc, là lấy truyền thuyết châu Uất-đơn-việt và Phật truyện, đồng thời lấy những điều tín ngưỡng lưu hành lúc đó làm cơ sở, đủ biết điều này chẳng qua là lý tưởng hóa.

Nói tóm lại, kinh A-súc Phật quốc là kinh Tịnh độ có quan hệ với các kinh khác, được biên soạn rất sớm. Tư tưởng này tất nhiên là rất đơn giản chất phác. Nhưng kinh Đại A-di-đà, kinh Phóng quang bát-nhã v.v…đều có ghi chép lại; chủ yếu là thêm vào sự un đúc dung hội, dựa theo đó mà có rất nhiều điều được ngầm lộ ra.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 46143)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 21015)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 23363)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 18883)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 15383)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 46618)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 15272)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 42567)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13055)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 33138)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 51166)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 6573)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 13092)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 29289)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 34313)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 23563)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 30309)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 29993)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 32625)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 10533)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 58541)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 14154)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 11345)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 30921)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25239)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22730)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 33092)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 17651)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 42067)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45633)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32039)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11271)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 27293)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17713)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 12207)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 29083)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28213)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 22687)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 17292)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11855)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34658)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 26286)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 29040)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 13156)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 28889)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 18683)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 46287)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 13790)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 29957)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 22777)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 12498)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 37208)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 36860)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant