Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

18. Chương Thứ Mười Tám

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 12467)
18. Chương Thứ Mười Tám
TỊNH ĐỘ GIÁO KHÁI LUẬN

Nguyên tác Nhật ngữ: Vọng Nguyệt Tín Hanh

 Hán dịch: Ấn Hải - Việt dịch: Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

Chương thứ mười tám

Thuyết một niệm vãng sanhtư tưởng bản giác của tông Thiên Thai

Tiết thứ nhất

Phái chủ trương an tâm lãnh giải

Chủ trương một niệm vãng sanh phản đối nhiều niệm tương tục, chuyên lấy cổ xúy an tâm lãnh giải làm chủ yếu, gồm có các ngài như Thành Giác Phòng Hạnh Tây, Chứng Không phái Tây Sơn và Thân Loan v.v…Trong đó, ngài Hạnh Tây đề xướng nghĩa một niệm sớm nhất. Quan điểm của các ngài Chứng Không và ngài Thân Loan bị ngài Hạnh Tây đánh bại cũng chẳng ít. Nghĩa một niệm vãng sanh vốn là tư tưởng một tiếng niệm Phật có thể vãng sanh, vì nhiều niệm tương tụctự lực tu hành; cho nên bị người tu theo bản nguyện tha lực bài xích, đả phá, đưa đến yêu cầu phải nói rõ nội dung tín tâm tha lực, thậm chí đề xướng thuyết an tâm lãnh giải.

Niệm Phật danh nghĩa tập quyển hạ của ngài Thánh Quang nói: “Có người lập nghĩa một niệm, chỉ biết nói môn an tâm mà không chịu niệm Phật vãng sanh, uổng công giải nói niệm Phật”.

Duy tín sao của ngài Thánh Giác nói: “Đường lối vãng sanh Tịnh độ trước tiêntín tâm, nhấn mạnh tín tâm quyết định vãng sanh, không chú trọng xưng niệm không coi trọng số lần, không tin nguyện lực của Đức Phật là sâu rộng”.

Lại nữa, Tuyển trạch quyết yếu của ngài Tín Tịch ghi: “Có một phái học giả đặt vấn nạn để phá hoại Tuyển trạch tập. Tập này nói rõ về phạm vi của khởi hạnh, nhưng chưa thuật rõ pháp môn an tâm”. Tức là chỉ chủ trương của ngài Hạnh Tây.

 

Tiết thứ hai

Nghĩa một niệm của ngài Hạnh Tây

Nay nói về nghĩa một niệm của ngài Hạnh Tây, ngài cho rằng miệng xưng một tiếng danh hiệu Phật không phải một niệm mà lắng nghe nguyện lực của Phật trí rồi lãnh giải thì mới được gọi là một niệm. Khi tâm sanh khởi lãnh giải một niệm này thì quyết định được vãng sanh, tức là dựa theo kinh Vô Lượng Thọ quyển hạ nói: “Nếu người được nghe danh hiệu Phật A-di-đà liền hớn hở vui mừng, cho đến một niệm thì người này được lợi ích rất nhiều”. Đó là đầy đủ công đức vô thượng, chỉ nhờ một niệm mà được lợi ích lớn lao của công đức vô thượng. Còn những người nghi ngờ không tin là do họ chẳng hiểu các trí như Phật trí, Bất tư nghị trí, Bất khả xưng trí, Đại thừa quảng trí, Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí thì giống như không tin tội phúctu tập căn lành, nếu nguyện vãng sanh về cõi nước Cực Lạc thì những người này vãng sanh trong cung điện bảy báubiên địa cõi nước Cực Lạc, trong năm trăm năm không thấy Phật, không nghe kinh pháp. Còn người lấy nhân chân thật hiểu rõ Phật trí thì dù một niệm vẫn chắc chắn được sanh về báo độ”. Một niệm của ngài Hạnh Tây kết hợp với Phật trí thành một thể, hiểu rõ Phật trí thì quyết định vãng sanh.

Huyền nghĩa phần sao, Biệt thời môn của ngài Hạnh Tây trứ tác nói, xả định thiện, hành tán thiện[1]; xả các hạnh, hành xưng niệm (danh hiệu Phật); xả nhiều niệm, hành một niệm; xả chư Phật, hành thờ Di-đà là căn cứ các thuyết kinh Pháp hoa, Quán kinh. Trong bốn loại xả và hành, chỉ loại cuối cùng được ghi trong Quán kinh. Xả miệng xưng, hành tâm niệmy cứ thuyết của Đại kinh; điều này là chân thật. Biệt thời là môn khác, hạnh khác chính là theo kinh A-di-đà nói.

Quán kinh nói xả miệng xưng niệm Phật là y theo Đại kinh tu hành tâm niệm; vả lại, pháp tâm niệm này là chân thật. Môn khác, hạnh khác chẳng qua là pháp Biệt thời ý.

Cũng giống như thế, Biệt thời môn trong Quán kinh huyền nghĩa phần sao nói: “Nam mô là quy mạng, cũng là nghĩa phát nguyện hồi hướng, niệm A-di-đà Phật tức là hành, vì hiểu rõ nghĩa này nên chắc chắn được vãng sanh”.

Từ Quán kinh cho đến ‘ắt được vãng sanh’ của kinh Vô Lượng Thọ đều lấy đầy đủ nguyện lực làm căn bản, bất luận đầy đủ hay không đầy đủ, nên biết niệm Nam mô A-di-đà Phật chính là quy mạng, là phát nguyện, là hồi hướng, chỉ có trí tuệ Phật mới hiểu được trong nhất tâm đều đầy đủ. Hạnh nguyện của chúng sanh được vãng sanh vốn đã đầy đủ ở trong danh hiệu Nam mô A-di-đà Phật, chúng ta không cần phát nguyện, quy mạng, hồi hướng thêm nữa. Một niệm liền được vãng sanh chỉ có trí tuệ Phật mới hiểu được. Ngài Chứng Không nói Phật thể tức là hạnh. Thuyết đại hạnh, đại tín của Thân Loan đều kế thừa ý này.

 

Tiết thứ ba

Nghĩa một niệm của Phật trí

Tịnh độ pháp môn nguyên lưu chương của ngài Ngưng Nhiên nêu ra thuyết của ngài Hạnh Tây: “Đại đức Hạnh Tây lập nghĩa một niệm, nói một niệm là một niệm của Phật trí, chỉ cho một niệm tâm của Phật tâm chân thật. Một niệm của Phật tríbản nguyện của Di-đà. Tín niệm của hành giả tương ưng với Phật tâm thì tâm khế hợp với nguyện lực một niệm của Phật trí, năng sở không hai, tín và trí chỉ là một, niệm niệm tương tục thì quyết định vãng sanh”.

Ngài Thiện Đạo nói: “Biển trí nguyện của Di-đà sâu rộng không có bờ mé”. Trí nguyện là nêu ra nhân và quả của Đức Phật Di-đà. Trí là quả thể được cảm từ nhân. Nguyện là bốn mươi tám nguyện phát ra từ tâm; đáp lại hạnh nguyện nên được quả trí này, đương thể của quả trí đều là nguyện tâm, do nguyện tâm mà thành, tức là Phật trí. Trong trí có đủ nguyện lực đời trước của chư Phật, cho nên chủng trí của Di-đà đã có gọi là trí nguyện; đây gọi là một niệm tâm của Phật trí. Tín tâm của hành giả khế hợp với trí này, cho nên mỗi niệm tương ưng với Phật trí.

Ngài Ngưng Nhiên còn dẫn chứng Kiến giải lược của ngài Hạnh Tây: “Nói nhất thừa hải là nêu pháp và dụ”. Nhất thừa tức là hoằng nguyện, hoằng nguyện là Phật trí, Phật trí là một niệm. Hải như tất cả dòng sông đều chảy ra biển cả, tất cả thiện, ác của phàm phu đều quy về trí nguyện của Đức Phật Di-đà nên đều được vãng sanh.

Kinh Vô Lượng Thọ gọi là Phật trí, là ý nghĩa của bản nguyện Di-đà. Phật tríđáp lại nhân hạnh của bốn mươi tám nguyện mà được cảm ứng quả thể, trong quả trí này đầy đủ các nguyện lực đời trước. Ngài Thiện Đạo nói biển trí nguyện của Di-đà là nói đủ nhân nguyện và quả trí. Tức là hiển rõ trong quả trí đầy đủ nguyện lực của nhân vị.

Lại nói về nhất thừa hải. Nhất thừa tức là hoằng nguyện, hoằng nguyện là chỉ Phật trí, cũng hiển rõ nghĩa của trí nguyện. Như thế, ngài Thiện Đạo giải nói Phật trí trong kinh Vô Lượng Thọý nghĩa bản nguyện lực của Đức Phật. Nhưng bản nguyện của Phật đưa đến chỗ đạt “nãi chí nhất niệm”, tin hiểu ý này là hiểu rõ nghĩa Phật trí. Xả hạnh là thuộc chấp căn cơ tự lực, khi chuyên tâm quay về nguyện lực của Phật Di-đà khế hợp một niệm của Phật trí, năng sở không hai, tín và trí chỉ là một, niệm niệm tương tục, tức là tướng vãng sanh.

Ngài lại dẫn chứng Nhất trích kí trong Tịnh độ pháp môn nguyên lưu chương của ngài Hạnh Tây nói: “Như Lai năng độ là tâm, tâm là trí. Sở độ là chúng sanh”. Chân thật là một niệm tâm, chúng sanh được độ cũng là tâm, tâm là trí, trí là sở độ, cho đến nhị hà[2] cũng là tâm, bạch đạo cũng là tâm, chỉ là một niệm tâm; đây gọi là chân thật tâm, thâm tâm, nguyện tâm, đầy đủ ba tâm này nhất định được vãng sanh. Nói Như Lai năng độ là một niệm, chúng sanh sở độ cũng là một niệm; cho đến Phật trí, nguyện lực rốt cuộc cũng là một niệm, tâm lãnh giải cũng là một niệm, thể của năng, sở không hai là nói thành lập sự nghiệp thành tựu chúng sanh.

 

Tiết thứ tư

Bản môn Di-đà và Phật tính

Trong Pháp Nhiên thượng nhân hành trạng họa đồ quyển 29, ngài Hạnh Tây nói: “Pháp môn Tịnh độ xưa nay dẫn dụng giáo nghĩa của tông Thiên Thaikiến lập tích môn Di-đà và bản môn Di-đà. Di-đà đã thành Chính giác cách nay mười kiếp là Tích môn Di-đà, Bản môn Di-đà là vô thỉ bản giác Như Lai, cho nên Phật tính giống như chúng ta không có sai biệt. Đây gọi là nghe được một niệm thì đầy đủ muôn sự”.

Quán niệm pháp môn tư dụng sao quyển 4 của ngài Trí Viên nói: “Trong nghĩa một niệm, danh hiệu Di-đà đã thành Chính giác cách nay mười kiếp, kiến lập Di-đà tiếp dẫn chúng sanh là tích môn Di-đà, danh hiệu Phật-đà của vị này không nói vãng sanh. Bản môn Di-đà là Phật tột cùng vô thỉ vô chung, khi đắc một niệm tâm khởi của bản môn Di-đà này thì nói vãng sanh”. Y theo đây mà ngài Hạnh Tây kiến lập sự khác biệt Bản môn Di-đà và Tích môn Di-đà. Đức Phật Di-đà đã thành Chính giác cách nay mười kiếp là Tích môn Di-đà, vô thỉ bản giác Như Lai là Bản môn Di-đà. Bản môn Di-đà cùng với Phật tính vốn sẵn đủ của chúng ta đồng là một thể, hiểu được điều này thì gọi là đắc một niệm tâm, quyết định được vãng sanh.

Lại nữa, Quán kinh huyền nghĩa phần bí sao quyển 1 của ngài Hành Quán đề cập đến Vô Lượng Thọ kinh, Lưu thông phần của ngài Hạnh Tây ghi: “Có người nghe được danh hiệu của Đức Phật Di-đà hớn hở vui mừng, cho đến thuyết ‘một niệm’ là ý nghĩa tột cùng trong kinh”. Một niệm này là được nhập một niệm trong sát na hiện tiền theo chủ trương của tông Thiên Thai để kiến lập nghĩa một niệm. Một niệm nhỏ nhiệm là một niệm vọng tâm trong thân ngũ ấm hiện tiền của hàng phàm phu chúng ta, đầy đủ thật tướng các pháp của tam thiên trong mười pháp giới, quán sát tức là tâm tính của phàm phu xưa nay vốn là thể viên thường đại giác. Nhưng các điều đã được lưu truyền này hình như chưa nhất trí về quan điểm, y theochúng sanh và Phật không hai, ngộ được phàm phu chúng ta xưa nay vốn là Phật, hiểu rõ nội dung đồng nhất ấy; cho nên, không thể không cho rằng thuyết của ngài Hạnh Tây kiến lập hoàn toàn theo thuyết pháp môn bản giác của tông Thiên Thai.

 

Tiết thứ năm

Tư tưởng bản giác của tông Thiên Thai

Thuyết tâm, Phật, chúng sanh cả ba không có sai khác là thuyết xưa nay tông Thiên Thai đề xướng rất thịnh hành. Đặc biệtNhật Bản, thời trung cổ ở Tỉ Duệ Sơn sanh ra hai phái là Huệ Tâm và Đàn Na đều cổ xúy tư tưởng bản giác là một sự thật rất nổi tiếng (thông thường nói: phái Huệ Tâm là pháp môn bản giác, phái Đàn Napháp môn thỉ giác. Thật ra, hai phái này đều cổ xúy tư tưởng bản giác).

Tư tưởng bản giác tức là đối với pháp môn thỉ giác mà nói từ nhân hướng đến quả, chúng sanh vốn có tính giác, lập tức nhận ra Phật cùng tột vô thỉ. Nghĩa là phàm phu chính là bản giác Như Lai, chúng ta không hiểu lí này, giống như thân đeo châu báu mà ở trong xóm nghèo, khi nghe lí này thì tâm liền khai ngộ vô thỉ bản giác Như Lai tức thời có sẵn.

“Sự kiện nhất niệm thành Phật” trong Chẩm song chỉ do ngài Nguyên Tín trứ tác nói: “Đối với vị ‘danh tự tức’, gặp thiện tri thức nghe được giáo pháp chỉ trong chốc lát thì ngay chỗ ngồi liền biết tự thân tức Phật, không cầu điều gì khác, tức là trụ đại hội bình đẳng. Tức giải, tức hành, tức chứng, ở trong một niệm liền thủ chứng mau như trở bàn tay. Ý nghĩa của Viên giáo là văn, tư, tu (hành), chứng chỉ trong nhất thời, chưa dời chỗ ngồi, khi gặp giáo pháp liền nói là chứng”.

Lại nữa, Thiên Thai Pháp Hoa tông Ngưu Đầu pháp môn yếu toản do ngài Tối Trừng trứ tác nói: “Lí một niệm của phàm phuNhư Lai tạng, tri kiến như thế gọi là danh tự tức Phật. Hiển thị chân Phật của bản giác chỉ trong một niệm của ta. Giác ngộ Phật thể của tâm tính, thủ chứng chỉ trong khoảnh khắc”.

Tu Thiền tự tương truyền nhật ký theo truyền thuyết là cùng một tác giả (Tối Trừng) nói: “Đã liễu giải tu đại hạnh tương tục là chẳng phải ngoài liễu giải còn có hạnh nào khác để tu, chỉ cần liễu giải vị ‘danh tự tức’ là biết tất cả pháp đều là Phật pháp đều nói liễu giải tương tục này gọi là tu đại hạnh, tức là lý tự thân tức Phật. Nếu liễu giải được thì liền trụ đại hội bình đẳng, ngoài tức giải, tức hành, tức chứng thì không có hạnh nào khác để tu, khi gặp giáo pháp thì ngay chỗ ngồi liền thật chứng”.

Nhưng hai phái Huệ Tâm và Đàn Na chủ yếu thịnh hànhthời đại Liêm Thương, nay dẫn các sách phần nhiều là mượn của người đời sau. Nhưng ngài Hạnh Tây cùng với người đồng môn là ngài Pháp Bản Phòng Hạnh Không chủ xướng nghĩa Thường tịch quang độ, và ngài Thánh Quang chất vấn ngài Pháp Nhiên có phải là thuyết ‘tín cảnh tượng viên dung’ hay không? Đều thuộc vào pháp môn khẩu truyền của phái Huệ Tâm. Do đó, chúng ta được biết là khi ngài Pháp Nhiên còn tại thế có nói những điều này.

Nay ngài Hạnh Tây lập Bản môn Di-đà và Tích môn Di-đà, Bản môn Di-đà không sai khác với Phật tínhchúng ta sẵn đủ. Đắc tâm này nơi một niệm thì quyết định vãng sanh. Vị ‘danh tự tức’ là nghe pháp đốn giáo, nếu biết ‘tự thân tức Phật’ chính là trụ đại hội bình đẳng thì đồng một ý nghĩa này.

Ngoài niệm Nam mô A-di-đà Phật, không được quy y Phật khác, không phát nguyện khác, không hồi hướng nơi khác, chỉ liễu giải Phật trí đều là một tâm đầy đủ. Không cần hạnh nguyện của chúng sanh vãng sanh, tức giải, tức hạnh, tức chứng, không tu hạnh nào khác ngoài liễu giải là đồng một ý nghĩa. Nói ‘bình sanh nghiệp thành’, nói ‘vãng sanh tức là thành Phật’ đều dựa theo chủ trương một nghĩa lí này.

Tóm lại, phái chủ trương an tâm lãnh giải hấp thu pháp môn bản giác của tông Thiên Thai, rồi sửa đổi lại thành tông nghĩa của pháp môn Tịnh độ.

 

 

 

Tiết thứ sáu

Bản môn Di-đà và chỉ có nhất thừa

Thuyết Bản môn Di-đà và Tích môn Di-đà, trước đây ở Nhật Bản các nhà Thiên Thai đã từng đề xướng. Giảng diễn Pháp hoa lược nghi quyển thượng của ngài Viên Trân nói: “Trong phẩm Như Lai Thọ Lượng, kinh Pháp hoa nói Đức Phật Vô Lượng ThọTây phương thật sự sống lâu vô cùng”.

Niệm Phật bảo hiệu của ngài Giác Vận nói: “Đức Phật Thích-ca bắt đầu thành đạo ở Già-da chẳng phải Phật thật, theo lẽ đó thì Phật A-di-đà ở Cực Lạc cũng là thùy tích, chẳng phải thật”. Trong Pháp hoa can yếu lược chú tú cú tập quyển hạ của ngài Tối Trừng trứ tác nói: “Vương tử thứ chín trong mười sáu vương tử là Tích môn Di-đà. Phật Thích-ca Mâu-ni của bản địa vô tác là Bản môn Di-đà. Phật Di-đà được nói trong Quán kinh là Tích môn Di-đà cùng một cách nói với Bản môn Di-đà trong kinh Pháp hoa”.

Theo trên đã nói, cũng có thể biết thuyết Bản môn Di-đà và Tích môn Di-đà của ngài Hạnh Tây được thành lập từ sự hấp thu giáo nghĩa của tông Thiên Thai.

Huyền nghĩa phần sao, Nhị thừa môn của ngài Hạnh Tây nói: “Hai loại nguyện tổng, biệt trong nhân hạnh của chư Phật đều là thùy tích lợi sanh, là phương tiện sau khi đắc quả giống như hai môn bản và tích trong kinh Pháp hoa và các thuyết trong kinh Hiền ngu v.v…”

Thế nào là lợi sanh, phương tiện? Tổng nguyện phương tiện chính là biệt nguyện. Biệt nguyện phương tiện chính là Di-đà. Bốn mươi tám nguyện phương tiện chính là niệm Phật vãng sanh. Mười niệm phương tiện chính là một niệm. Vì thế, Quán kinh nói: “Ba đời chư Phật lấy tịnh nghiệp làm chính nhân”.

Bát-chu tam-muội nói: “Ba đời chư Phật trì niệm A-di-đà Phật tam-muội mà được thành Phật”. Đức Phật A-di-đà Phật thành Chính giác cách nay mười kiếp lẽ nào nói không thật? Chỉ có vô duyên đại từ của giác hạnh viên mãn cứu độ chúng sanh thường bị chìm trong biển khổ sanh tử vãng sanh về cõi Phật của báo thân thường trụkhai hiển trí tuệ rộng lớn của Đại thừa. Nhờ chư Phật, bồ-tát vị lai, quá khứ, hiện tại vận chuyển Đại thừa mà độ chúng sanh ra khỏi biển khổ sanh tử, chứng nhập quả thánh đạo. Từ vô thỉ đến nay chỉ có nhất thừa, không có thừa nào khác. Đây là bốn mươi tám lời nguyện, mười niệm vãng sanh, thùy tích lợi sanh, phương tiện sau khi đắc quả của Phật Di-đà

Bản môn Di-đà khai hiển chỉ có một niệm của nhất thừa; do đó, chỉ có một niệm này được gọi là pháp chân thật. Nghĩa là chư Phật ở nhân vị phát hai nguyện tổng và biệt, ở trong vô lượng kiếp tu hành thành Phật, chỉ nói điều này là chân thật. Cho nên thùy tích lợi sanh chẳng qua là phương tiện sau khi đắc quả.

Theo kinh Bát-chu tam-muội nói, ba đời chư Phật trì niệm Di-đà tam-muội mà được thành Phật, hiển thị Phật A-di-đà chẳng phải Phật mới thành Chánh giác mà cách nay mười kiếp, tức là bản giác Như Lai vô thỉ vô chung. Vì phương tiện sau khi đắc quả không ngoài thân thùy thị hóa tích này, cho nên bốn mươi tám lời nguyện của Phật Di-đà, mười niệm vãng sanh v.v…lẽ nào nói không chân thật? Đã hiển bày chỉ có một niệm chân thật, đó là phương tiện độ sanh. Một niệm là khai hiển trí tuệ rộng lớn Đại thừa của vô thỉ bản giác Như Lai, chỉ có nhất thừapháp chân thật, không hai cũng không ba. Ba đời chư Phật đều do một niệm Di-đà tam-muội này mà thành Phật, cứu vớt chúng sanh thường bị chìm trong sanh tử cũng do chỉ có nhất thừa chân thật mà được vãng sanh về cõi Phật của báo thân thường trụ.

Như thế, ngài Hạnh Tây lấy một niệm để mở bày bản môn Di-đà; đồng thời, bốn mươi tám nguyện, mười niệm vãng sanh v.v…là tích môn lợi sanh, tức là hiển bày một niệm chân thật chẳng qua là phương tiện độ sanh, cho rằng nhiều niệm vô ích, đây gọi là tự lực khó hành. Nhưng nếu nghi ngờ bản nguyện của Đức Phật thì phải từ kiến địa của pháp môn bản giác để hiểu rõ những pháp tu hành kia là pháp môn Thỉ giác bất liễu nghĩa. Một khi không biết tư tưởng bản giác và không xem văn hiến của các Tổ mà dám cả gan chủ trương nghĩa mới ‘một niệm vãng sanh’ là đặc sắc của ngài. Lại từ chủ trương này thấy được sự chuyển biến và phát triển của giáo nghĩa Tịnh độ, không thể không nói đây là một sự kiện rất hay.


 

[1] Theo ngài Thiện Đạo, mười ba pháp quán đầu trong mười sáu pháp quán của kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật là ‘định thiện’, ba pháp quán sau là ‘tán thiện’

[2] Nhị hà dụ cho tham và sân. Bạch đạo dụ cho con đường đưa đến Tây phương (xem trong Tuyển trạch bản nguyện niệm Phật tập của ngài Pháp Nhiên).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 46043)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 20949)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 23249)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 18798)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 15327)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 46469)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 15204)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 42439)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 12996)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 33044)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 51045)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 6516)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 13038)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 29179)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 34224)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 23434)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 30193)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 29886)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 32518)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 10486)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 58306)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 14070)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 11293)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 30839)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25134)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22643)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 32968)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 17598)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 41963)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45496)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 31945)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11230)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 27188)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17611)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 12143)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 28948)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28081)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 22586)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 17245)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11804)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34563)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 26212)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 28968)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 13101)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 28779)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 18571)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 46120)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 13725)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 29855)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 22652)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 12443)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 37098)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 36740)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant