Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 7: Duyên nghiệp

04 Tháng Chín 201100:00(Xem: 7019)
Chương 7: Duyên nghiệp

ĐÔI BẠN HÀNH HƯƠNG
Chiêu Hoàng

Chương 7: Duyên nghiệp

Tối hôm đó, họ dừng chân tại một quán trọ. Vì công chúa đã vét hết tiền cho ăn mày, nên phải cầm cái vòng đeo tay cho chủ quán và bảo:

– Ông hãy đem chiếc vòng này đổi thành bạc và cho ta một căn phòng lớn.

Gã chủ quán nhìn sơ qua chiếc vòng thấy nét khắc rất tinh xảo, biết ngay rằng đó là một vật rất quý giá, nên càng tỏ vẻ khúm núm và chiều đãi khách quý hơn.

Đó là một căn phòng có cửa sổ nhìn ra sau vườn. Thoạt nhìn, khu vườn được trồng tỉa rất tươm tất và thanh nhã. Góc vườn là một hòn non bộ với thác nước chảy róc rách nghe rất vui tai. Tuy là nhân tạo, nhưng cách kiến trúc cũng khá cầu kỳ. Chung quanh thác, chủ nhân trồng vài cây liễu tô điểm thêm các loại hoa đủ màu thi nhau đua sắc. Công chúa rất ưa thích hoa, nhất là các loài lan. Có những loại cánh nó mong manh nhỏ bé, có loại trắng nuốt như ngọc.

Vẫn như thường lệ, công chúa cũng làm một chiếc giường nhỏ cho Ếch, nàng vốn giàu tưởng tượng và có khiếu mỹ thuật, nên chiếc giường luôn luôn được nàng tô điểm thêm bằng những cánh hoa. Sau khi về đến phòng, công chúa cảm thấy mệt mỏi một cách lạ thường, nàng đi ngủ ngay, nhưng cũng không quên chúc Ếch một đêm ngon giấc.

Từ khi gặp được thằng bé ăn mày, Ếch bỗng trở nên tư lựít nói. Công chúa có hỏi điều gì thì cũng chỉ ậm ừ cho qua. Hình như trong tâm Ếch dấy lên một nỗi muộn phiền nào đó. Công chúa tôn trọng nỗi buồn của bạn, nên cũng không tò mò hỏi han thêm.

Còn Ếch thì bỗng thấy lòng mình chùng lại, chàng đột nhiên nhớ đến những ngày tháng miệt mài trong thiền định, nhớ đến niềm cô tịch và mùi hương trầm thơm ngát trong những buổi chiều nắng quải. Nhận ra cuộc đời muôn mặt. Tình yêu, cái chết, niềm vui thiền định, nỗi cô đơn v.v... Tất cả... tất cả... đều là những cảm giác cần phải chứng nghiệm và kinh qua. Ngày xưa, trong những ngày tháng miệt mài đi sâu vào tâm thức, chàng thường phải đối diện với nỗi cô đơn, những muộn phiền của ma ý, những nỗi khắc khoải của các “công án” hóc búa như một mũi dao sắc đâm sâu trong trái tim, rút ra cũng chẳng được, mà để nguyên như thế cũng chẳng xong. Nhưng bù lại, chàng có được niềm an vui của thiền lạc.

Ngày ấy... Ôi! Sao mới có vài năm mà nghe chừng như cả thế kỷ. Ngày ấy, trong những lúc tu tập, chàng đã say mê trong thiền lạc (đó cũng là một “căn bệnh trầm kha” của người tu hành). Có những lúc chàng cảm thấy như vong thân, không còn thấy sự hiện diện của sắc thân nữa, hình như nó thành ánh sáng, hòa tan vào hư không. Những lúc như vậy, chàng cố gắng an trú trong trạng thái đó càng lâu càng hay, rồi đâm ra sống xa vời với thực tế. Không muốn xả thiền nữa, vì cứ hễ xả thiền, chàng lại phải trở về với đời sống thực, đầy cấu nhiễm, đầy vọng tưởng xôn xao...

Rồi đến một đêm trời đầy sao như hôm nay. Oan khiên lại đến, chỉ vì một niệm sân hận mà chàng phải mang thân ếch thế này...

Tối hôm ấy, đang trong lúc thiền định thì chàng bỗng nghe tiếng ồm ộp của một chú ếch. Hình như nó đang gọi bạn, hay đang hát. (Ta nên biết một điều, khi tu hành đến mức độ có cảm giác vong thân, thì lúc đó tâm thức khá thanh tịnh, có thể “đọc” được một chút tâm niệm của những chúng hữu tình bình thường). Dưới ánh trăng, đó là một con Ếch màu xanh rêu đậm, nó đậu trên một lá sen lớn, đang rống cổ lên “hát” say sưa. Để ý kỹ, cũng thấy có nhịp điệu hẳn hòi, khi cao, khi thấp... Ban đầu, chàng cũng không để ý lắm vì chàng vẫn thường quen với những âm thanh rỉ rả của ve sầu, ếch, nhái. Nhưng dần dà, hình như âm thanh càng ồm ồm hơn, tiếng kêu thật là nhức óc, xoáy tai, không thể tập trung vào thiền định được nữa, chàng liền từ từ xả thiền...

Đêm hôm sau, cũng đang trong công phu thiền định, thì chú ếch hôm qua lại nhảy lên lá sen ấy, cũng cất tiếng kêu. Độ một lúc thì có tiếng ếch thứ hai đáp lại, có lẽ đó là một chị ếch, nên âm thanh vừa ngắn lại vừa trong. Cả hai khấy động sự yên tĩnh trong đêm khuya, chàng có cảm tưởng chúng nó đang say sưa hoà nhịp, kẻ tung, người hứng, như đang khiêu vũ với nhau bằng âm thanh ồm ộp ấy, như muốn trêu tức chàng...

Lòng xôn xao không chủ định. Chàng lại xả thiền...

Đêm thứ ba, rồi đêm sau, đêm sau nữa... Gần cả tuần lễ chàng không cách gì thiền định được, cứ hễ sắp nhập thiền thì tiếng ếch lại kêu. Riết rồi, tâm bị phân. Đầu óc chàng trở nên... rình rập và chờ đợi âm thanh ấy đến. Càng chờ đợi, chàng càng nóng nảy, tâm càng vọng động.

Sang đến đêm thứ mười lăm, đêm đó lại là ngày rằm, ánh trăng chan hoà khắp nơi, mặt trăng to như chiếc bánh treo lơ lửng trên không. Lòng dặn lòng rằng đêm nay ta quyết chí nhập thiền và đóng hết tất cả các giác quan để không bị quấy nhiễu nữa... Canh một qua đi trong yên lặng, sang đến đầu canh hai thì tiếng ếch bất thình lình lại nổi lên. Lần này như ròn rã, như chát chúa, như muốn trêu tức chàng. Đêm nay, chỉ có tiếng kêu của một chú ếch. Kêu một lúc, nó ngừng bặt, rồi bất thình lình, nó nhảy từ hòn đá phía bên kia bờ rạch qua sát phía bên chỗ chàng đang ngồi cách khoảng gang tay, kêu lên một tiếng “ộp” lớn.

Không thể chịu đựng được nữa, chàng lập tức xả thiền và vói ngay hòn đá bên cạnh đập mạnh xuống. Con ếch chết tức thì... Còn chàng thì choáng váng, bần thần. Phần vì sự hối hận lên đến tột đỉnh vì đã phạm giới sát. Phần vì xuất thiền quá nhanh nên kinh mạch bị rối loạn, chàng thấy bầu trời quay cuồng như mình đang bị xoáy trong một cơn lốc lớn. Chàng cố ôm lấy xác ếch cầu nguyện trước khi ngã quỵ xuống và ngất đi...

Tỉnh dậy, thấy mình biến thành con ếch nhỏ (Do vì công phu tu hành, nên có đuợc tam sắc cực kỳ đẹp mắt và vẫn còn nói được tiếng người) Nghe đâu đây trên không trung có một tiếng nói rất mơ hồ nhưng rõ rệt:

– Ngươi phải chịu quả báo làm thân ếch trong ba năm. Phải lăn lộn vào dòng đời để học được thế nào là lòng yêu thương, bác ái... Trừ phi ngươi gặp được một người yêu thươngcải hóa được tâm hồn khô cằn chỉ cầu trí huệ của ngươi thì mới được trở lại làm người trước khi thời hạn chấm dứt...

Từ đó, chàng đi lang thang đây đó. Tìm mãi bài học vỡ lòng về yêu thương. Cho đến khi cơ duyên chín mùi thì gặp được nàng công chúa...

Ngày nay, càng đi sâu vào đời, nếm được hương vị của tình yêu trai gái (mà ngày trước chàng rất... khinh bỉ và coi thường). Chàng cũng thấy tình yêu kỳ diệu biết bao. Nó rất lung linh đẹp như một bức tranh cổ, như hư, như thực...

Do sự tu tập thiền định khá thuần thục, nên khi dối diện với tình yêu dành cho Công chúa, thỉnh thoảng trong lòng chàng lại nảy lên một sự tiếc nuối trong những ngày tháng tu tập xưa. Sợ rằng nếu cứ đắm đuối trong tình cảm bình thường của thế gian này, thì khó có thể đạt đến Giải Thoát. (Chàng có biết đâu rằng, tình yêu trai gái chính là cái bóng dáng, là “mặt bên kia” của lòng từ bi. Mà muốn có, bắt buộc ta phải đi từ mức độ thấp nhất. Ít nhất cũng có được tình yêu – mà chàng cho là rất “đời”–, rồi từ tình yêu ấy, đi xa hơn – trong một chánh kiến do sự tu tậpdần dần sẽ trở thành tình bác ái, lòng vị tha, rồi lên cao hơn, sẽ phải tu tập về tâm từ, tâm bi để có thể phát triển được tâm Bồ Đề).

Vì không biết được điều này, nên lòng chàng đang hoang mang giữa bờ mé của Đời và Đạo. Chàng cảm thấy lòng mình dấy lên một tình cảm khó tả... Một nỗi muộn phiền lảng vảng đâu đây...

***

Đêm đã rất sâu, bầu trời như trong hơn, những vì sao càng lung linh, lấp lánh trên cao.

Đợi đến khi Công chúa đã ngủ say. Ếch lắc mình, chiếc áo khoác mang hình ếch rớt xuống, chàng hiện lại nguyên hình người và lẻn ra sau vườn. Mùi hương đêm chen lẫn với hương hoa thơm ngát một vùng. Chàng tần ngần ngừng lại bên hòn non bộ cạnh thác nước nhân tạo. Tiếng róc rách của nước làm chàng nhớ đến tiếng thác hùng vĩ hôm nào cùng công chúa trong cánh rừng bên một chiếc hang nhỏ. Lòng xôn xao quá, mới đây mà đã trở thành kỷ niệm. Rồi sẽ ra sao sau khi tìm được giáo pháp? Sớm muộn gì cũng phải chia tay. Đời là vậy, khi hợp, khi tan... Nỗi buồn miên man vô tận thường đi theo ngay sau bóng dáng của niềm vui. Chàng ngạc nhiên đến tận cùng khi “ngắm nhìn” tâm thức mình lao xao đầy vọng tưởng. Thật ra, trên mỗi bề mặt của tâm thức, dẫu là vọng hay chân cũng đều mang một dáng dấp giá trị nào đó cần phải kinh qua. (Tặc lưỡi, chàng nghĩ) Hay ta cứ đi sâu vào vọng cho đến tận cùng xem sao. Điều quan trọng là vào mà còn tỉnh thức để đi ra mới thật là Đạo.

Đêm càng sâu...

Đâu đây, tiếng côn trùng rả rích giữa đêm khuya....

Ếch ngồi xuống chiếc bàn đá bên cạnh thác nước. Chàng khẽ hái một cánh lá rồi thổi tâm lực vào đó. Lạ lùng thay, cánh lá biến thành một cái khay con, trên có một bình rượu cổ cao và một cái chén nhỏ... Chàng lại hái một cánh lá khác, trên còn đọng một hạt sương trong suốt như thủy tinh, chàng nhẹ nhàng rót hạt sương vào bình và lắc khẽ. Lắc một lúc thì nghe có tiếng nước dao động trong bình. Chàng lại hà thêm một làn hơi vào miệng bình. Để mũi vào ngửi thoáng qua, mùi rượu thơm ngát tỏa lên. Chàng mỉm cười, thong thả rót rượu ra cái chén nhỏ...

Hương đêm pha với hương rượu thơm thoang thoảng một vùng. Chàng thong thả hớp từng hớp nhỏ, nhìn lên bầu trời đầy sao, tư lự... Chàng rút chiếc sáo làm bằng trúc ra đưa lên môi, thổi lên một điệu nhạc nhẹ nhàng... Nhưng chỉ thổi được một lúc, chàng lại lắc đầu, tâm thức hình như đang xôn xao đầy vọng tưởng nên không thể thổi được một khúc nhạc nào ra hồn. Lòng bâng khuâng muốn biết, duyên nghiệp giữa mình với nàng công chúa kiếp trước ra sao?

Chàng lại rót rượu vào chén...

Lần này, chàng không uống, nâng chén rượu lên và nhìn xuống mặt rượu, mờ mờ, chỉ thấy bóng của trăng... Chàng muốn tìm kiếm xem nghiệp duyên mình với nàng công chúa trong những kiếp quá khứ. Dù biết rằng tâm lực còn kém, khó có thể “nhìn” được tiền kiếp mình, nhưng chàng vẫn hy vọng có thể nhìn thấy được ít nhiều một vài mảnh quá khứ. Chàng bắt đầu điều hòa hơi thở, nhập định, chăm chú phổ tâm thức vào chén rượu. Độ khoảng một trống canh thì... Ô kià, lạ lùng thay, mặt rượu trong chén hơi gợn sóng. Bóng trăng xao động vỡ ra thành ngàn mảnh, mờ nhòa, rồi hiện ra một hình ảnh khác ngày càng rõ dần...

***

Đó là hình ảnh một vị Bà La Môn áo vải, hình như còn rất trẻ. Chàng đang đi trên một con đường dẫn vào một thành phố lớn. Trên người dính đầy bụi đất như vừa trải qua một cuộc hành trình dài xa. Khuôn mặt người Bà La Môn rất khôi ngô, với đôi mắt trong sáng luôn nhìn thẳng. Chàng có vẻ hơi ngạc nhiên khi thấy dân chúng trong vùng rất nhộn nhịp. Mọi nơi, mọi chốn, họ đều treo đèn kết hoa và có nhiều nơi còn thêm tiếng nhã nhạc vang lừng... Điều lạ là trên con lộ chính dẫn vào thành phố, dân chúng đứng bên đường ôm những bó hoa rực rỡ, có người còn cởi những chiếc áo đắt tiền của mình trải trên mặt lộ như đang cung nghinh, chờ đợi một nhân vật cực kỳ quan trọng nào đó đi qua. Người Bà La Môn nhìn quanh, thấy cuối đường có một thiếu nữ đang ôm bảy cành hoa vô ưu đi ngược chiều. Khuôn mặt nàng được phủ lên một tấm voan mỏng. Thấp thoáng qua khuôn voan, chàng nhìn thấy đôi mắt nàng đang mơ màng nghĩ đến điều gì đó – chắc hẳn là vui lắm – nên đôi môi mọng của nàng như muốn mỉm cười...

– Này cô... (người Bà La Môn lên tiếng)

Thiếu nữ giật mình vì tiếng gọi của vị Bà La Môn trẻ. Nàng dừng lại, nụ cười và đôi mắt mơ mộng chợt tắt, thay vào đó một khuôn mặt nghiêm trang. Nàng chắp tay trước ngực như một lời chào:

Xin lỗi. Ông cần gì?

– Trong thành này có chuyện gì sắp xảy ra mà dân chúng nhộn nhịp thế? Và cô cầm bảy cành hoa vô ưu đi đâu vậy?

Thiếu nữ ngạc nhiên, nhìn vị Bà La Môn hỏi lại:

– Ông không biết sao? Hôm nay, đức Phật Nhiên Đăng sẽ đi ngang qua đây. Bảy cành hoa vô ưu này là để dâng lên Ngài. Ngài là một vị Phật – Đấng Nhất Thiết Chủng Trí - Thật may mắn cho ai có cơ duyên được gặp Ngài...

Người Bà La Môn trẻ nghe thiếu nữ nói đến một vị “Nhất Thiết Chủng Trí” thì trong tâm sinh hoan hỷ tột cùng. Có phải đấy không? Chẳng phải chàng đã từng lặn lội bao nhiên năm nay tìm thầy học đạo, tìm một vị “biết tất cả các pháp” đó sao? Chàng nghe trong tâm rộn lên một niềm vui và đồng thời muốn khởi tâm cúng dường vị Phật này. Chàng lần trong túi, biết chắc rằng mình chỉ có vỏn vẹn mười hai đồng tiền vàng, số tiền này chàng đã làm việc trong mười năm để có đủ tiền báo ơn thầy. Nhưng chuyện cúng dường cho đấng Nhất Thiết Chủng Trí cần hơn. Nghĩ bụng, mình sẽ lấy số tiền này mua hoa cúng dường Phật trước, rồi sẽ lại đi kiếm tiền để trả ơn thầy sau. Hoan hỷ, chàng hỏi:

– Hãy chỉ cho tôi biết, cô mua hoa này ở đâu, vì tôi cũng muốn mua hoa cúng dường Ngài...

– Rất tiếc, đây chính là bảy cành hoa cuối cùng tôi mua ở chợ. Bây giờ không còn hoa để ông mua nữa đâu!

Nghe thiếu nữ nói vậy, vị Bà La Môn trẻ hơi thất vọng, rồi đề nghị:

– Hay là cô để lại tôi bảy cành hoa vô ưu này với mười hai đồng tiền vàng nhé?

Thiếu nữ lắc đầu:

– Không được! Mười hai đồng tiền vàng chứ có đến trăm đồng tiền vàng tôi cũng không bán!

Thấy thiếu nữ cương quyết, vị Bà La Môn lại đề nghị:

– Hay cô cứ cầm mười hai đồng tiền vàng này giữ riêng. Còn hoa thì cô có bằng lòng cho tôi cùng chung cúng dường được chăng?

Nghe vị Bà La Môn đề nghị như vậy. Thiếu nữ mới nhìn thẳng vào mắt chàng nghiêm trang hỏi:

– Nếu như chàng nói như vậy có nghĩa rằng chàng cũng muốn dính dáng đến ta? Ta chỉ bằng lòng với một điều kiện thôi...

– !?

– Là chàng phải hứa đời đời kiếp kiếp sẽ làm chồng ta cho đến khi chàng đạt giác ngộ và độ cho ta...

Nghe thiếu nữ nói vậy, người Bà La Môn chẳng chịu, lắc đầu nguầy nguậy:

– Không được, không được! Ta không thể hứa với nàng như thế. Vì tâm thức của người nữ hay đa đoan lắt léo... Nàng sẽ cản trở con đường tu tập của ta. Cản trở những hạnh ta muốn làm, như khi ta tu tập bố thí, có thể phải bố thí tất cả của cải, ruộng vườn, nhà cửa, nhẫn đến cả cái thân xác này nữa...

Thiếu nữ vẫn nghiêm trang:

– Ta sẽ nhẫn chịu được tất cả. Chỉ cần chàng hứa một lời...

– Ý nàng muốn bảo...?

– Phải, ta sẽ không bao giờ cản trở chàng trên con đường tu tập...

Vậy thì tốt lắm! Nàng hãy mau đưa ta mấy cành hoa để ta đem đi cúng Phật!

(Trích một điển tích trong kinh)

***

Mặt rượu lại gợn sóng, rồi các hình ảnh dần dần biến mất. Ếch cố dụng tâm, nhưng cũng không thể nhìn thêm được chút nào...

Chàng tư lự, nhủ thầm: “À, hóa ra là thế! Trong một tiền kiếp nào đó, ta và công chúa đã từng có những duyên nghiệp với nhau. Kiếp này gặp lại, cùng nương nhau đi tìm giáo pháp...”

Chàng đưa ly rượu lên môi, nhấp một hớp, lòng bâng khuâng, bồi hồi với duyên nghiệp trùng trùng...

Xa xa, ánh mặt trời đã le lói ló dạng ở phương Đông...

Thì ra, đêm đã tàn...

Một ngày mới lại bắt đầu...
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 167)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 490)
Từ khi ra đời và truyền bá rộng rãi đến các nước trên thế giới, trong suốt quá trình hoằng dương chánh pháp, hội nhập và phát triển
(Xem: 474)
Sự phát hiện của những pho tượng và văn bia còn lưu lại cho thấy Tịnh Độ xuất hiện ở nước ta vào đời nhà Lý, nhưng đến đời nhà Trần thì mới thật sự phát triển mạnh.
(Xem: 453)
Tịnh độ, hay Phật độ, Phật quốc được hiểu là một cõi thanh tịnh thuộc về một vị Phật đã tạo ra.
(Xem: 522)
Chúng ta muốn tu tập pháp môn Tịnh độ thành công thì sự thành công ấy, phải đặt trên nền tảng của Tịnh giới.
(Xem: 323)
Pháp môn Tịnh độ được xem là một trong những pháp môn tu tập hội đủ hai yếu tố: tha lựctự lực;
(Xem: 439)
Pháp tu Tịnh độ là một trong nhiều pháp môn tu tập thuộc Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 788)
Đạo Phật có 8 vạn 4 nghìn pháp môn, trong đó Tịnh Độ tông có tầm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân sinh.
(Xem: 1115)
Kinh A Di Đà cùng với kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ là ba kinh căn bản làm tông của tông Tịnh Độ
(Xem: 1436)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961) là một trong những vị tỳ kheo theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng của Thái Lan bậc nhất.
(Xem: 1163)
Thay vì luôn làm nhiều việc cùng một lúc, ta phải tập thói quen chỉ làm mỗi lần một việc. Chánh niệm cần phải được luyện tập.
(Xem: 1088)
Không biết tự bao giờ câu “A Di Đà Phật” trở thành câu cửa miệng cho bất kỳ ai là tín đồ Phật giáo
(Xem: 2288)
“Niệm Phật (S: Buddhānusmrti; P: Buddhānussati): tâm nghĩ nhớ pháp thân Phật hoặc quán tưởng thân tưởng Phật, quán niệm công đức Phật hay miệng xưng danh hiệu Phật”
(Xem: 1492)
Phàm niệm Phật là do tâm khởi. Tâm khởi thiện thì niệm thiện, khởi niệm thiện thì nghiệp báo thiện.
(Xem: 1768)
Khi niệm Phật, người tu hành nên y theo các phương pháp nêu ra sau đây, chọn lấy phương pháp nào thích hợp nhất với căn cơhoàn cảnh mình mà hành trì.
(Xem: 2168)
Hệ thống giáo nghĩa Chân tông được kiến lập qua tác phẩm chủ yếu của Ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng
(Xem: 1876)
Người niệm Phật, ai ai cũng hủy báng tham thiền. Người tham thiền, ai ai cũng hủy báng niệm Phật. Ví như khi đối đầu với cái chết, chúng ta lại muốn đối phương sớm chết theo mình.
(Xem: 2584)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 4722)
Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giả sơ phát tâm tu trì pháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng công hành trì pháp môn niệm Phật.
(Xem: 2615)
Nói và nghe là hai yếu tố quan trọng trong đời sống con người.
(Xem: 6299)
Chúng ta đều cần cầu nguyện đến Phật Vô Lượng Quang A Di Đà [Amitabha] rằng chúng ta sẽ sinh trong cõi Cực Lạc [Dewachen] khi chết.
(Xem: 3233)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 3037)
Không những đời sau, hành giả sẽ được sanh về Thế Giới An Lạc mà ngay trong đời này, hành giả sẽ được an lạc, vô úy vì họ đã ...
(Xem: 2885)
Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh? Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử,
(Xem: 3665)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã...
(Xem: 3171)
Hành giả tùy niệm Như Lai khi tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối, được nghĩa tín thọ, pháp thọ,
(Xem: 8049)
Vọng niệm diệt dứt, đó là chân tâm thường trụ của chư Phật.
(Xem: 2829)
Điểm thù thắng nhất trong Phật pháp làm cho chúng ta khâm phục đến năm vóc sát đấtPhật pháp chỉ dạy một cá nhân tôi chứ chẳng dạy ai khác, đây là điều tôi hiểu rất rõ ràng.
(Xem: 8468)
Trong quá trình nghiên cứu kinh Đại thừa nói chung và pháp môn Tịnh độ nói riêng, với những gì biết được, tôi cũng “suy luận” ra là có cõi Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà.
(Xem: 4388)
Làm sao thoát khỏi vòng nghiệp lực, cải đổi vận mạng? Muốn làm chủ nghiệp lực, dĩ nhiên phải Tu, chân thành hướng về Phật, sẽ được sống trong vầng hào quang tịnh khiết.
(Xem: 8096)
Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngã cuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng.
(Xem: 6667)
Hàng năm, từ trung tuần tháng 12 dương lịch, các tự viện khắp nơi đều hoan hỷ chuẩn bị tổ chức các khóa tu để cúng dường lễ vía Đức Phật A Di Đà, vị Phật đã phát 48 đại nguyện cứu độ chúng sanh
(Xem: 11163)
Trong kinh có một câu chuyện xảy ra làm đau lòng mọi người khi đức Phật còn tại thế. Một người vì quá tham tàn, bạo ngược, bất chấp cả tình cha con...
(Xem: 22777)
Giáo, Lý, Hạnh, Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật, thật là đường tắt để đắc đạo. Xưa kia, tu pháp nào cũng đều đủ cả bốn điều này.
(Xem: 5238)
Danh hiệu tuyệt vời của A Di Đà đã thâu tóm trong Ngài đến những vô lượng vô số công phu tu tập. Chính danh hiệu...
(Xem: 11710)
Pháp môn Tịnh-độ là một trong 84 vạn pháp môn mà Đức Phật Thích-Ca "phương tiện" chỉ bày cho thập phương chúng sanh kể cã cõi ta-bà nầy hành trì để giải thoát "sanh tử-luân hồi"
(Xem: 11339)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay.
(Xem: 12541)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 34550)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 32706)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22114)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 12482)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 11825)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 10334)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10809)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 11771)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11671)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 10888)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10669)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 11361)
Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ yêu cầu chúng ta hai điều mỗi khi trì tụng chú Đại Bi, đó là thành tâm và không mưu cầu những việc bất thiện.
(Xem: 7174)
Chúng ta ở nơi đây cùng nhau nghiên cứu, thảo luận một phương pháp tu học trọng yếu trong Phật pháp chính là ba tư lương của tịnh độ.
(Xem: 6512)
Chúng ta không thể biểu hiện chức năng như một thành viên của xã hội ngoại trừ chúng ta có một khái niệm nào đó về thiện và ác.
(Xem: 7211)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ.
(Xem: 5719)
Kinh tạng còn ghi lại khá nhiều trường hợp Đức Phật đích thân trợ niệm hoặc dạy các đệ tử đi trợ niệm cho người bệnh hoặc người sắp lâm chung.
(Xem: 6407)
Khi suy nghĩ những nhu cầu tâm linh của người sắp chết, nguyên tắc căn bản là làm bất cứ điều gì bạn có thể làm được để giúp đỡ người chết có tâm bình tĩnh và an lạc, để họ có ý nghĩ tâm linh tích cực nhất.
(Xem: 6002)
Qua thực tế sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng dấu ấn của pháp môn Tịnh độhết sức sâu đậm.
(Xem: 9358)
Phàm người niệm Phật, điểm chánh yếu là giải quyết vấn đề sống chết, chẳng phải lơ láo qua ngày!. Nên nghĩ đến cơn vô thường mau chóng, thời khắc chẳng chờ người,
(Xem: 5881)
Bổn nguyện tức là bốn mươi tám lời nguyện. Sau khi Tịnh Tông được thành lập thì chúng ta niệm Phật y theo ‘bổn nguyện’.
(Xem: 5859)
Hành vi đời sống của chính mình chính là Phương tiện khéo léo của sáu phép Ba La Mật. Dùng sáu phép này để tu sửa lại tất cả những hành vi sai lầm đã phạm phải ở ngay trong cuộc sống thường ngày của chúng ta.
(Xem: 5614)
Kinh Vô Lượng Thọviên giáo xứng tánh của Như Lai, là hóa nghi sẵn đủ của chúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant