Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

B. Ngài Đạo XướcTư Tưởng Tịnh Độ

16 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 11641)
B. Ngài Đạo Xước và Tư Tưởng Tịnh Độ
TƯ TƯỞNG TỊNH ĐỘ TÔNG

HT Thích Như Điển biên soạn


III. TỊNH ĐỘ TÔNG CỦA TRUNG HOA

B.- Ngài Đạo XướcTư Tưởng Tịnh Độ

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế, Ngài chia giáo pháp của Ngài ra làm 3 thời kỳ. Đó là thời Chánh Pháp gồm 500 năm; thời Tượng Pháp gồm 1.000 năm và thời kỳ Mạt Pháp gồm 10.000 năm.

Thời Chánh Pháp có nghĩa là: Các hành giả có tu, có hành và có chứng. Thời kỳ nầy là thời kỳ của Đức Phật, các vị Bồ Tát và các vị A La Hán xuất thế. Khi nghe giáo pháp từ bi, trí tuệ của Phật dạy đều hoan hỷ tín thọthành tựu quả vị Bồ Đề. Ngay cả độc ác sinh tâm hại Phật như: Đề Bà Đạt Đa, Vô Não hay bất hiếu như A Xà Thế, ác độc như bạo chúa A Dục trước khi quy y Tam Bảo v.v… nhưng khi những vị nầy nghe, hiểu và thực hành giáo lý giải thoát ấy thành tựu; tức là điểm đến của tâm có kết quả. Thời nầy gọi là thời kỳ có tu, có hành và có chứng; nhưng tiếc thay chỉ có 500 năm ngắn ngủi.

Thời kỳ Tượng Pháp 1.000 năm, sau thời Chánh Phápthời kỳ: Có tu, có hành nhưng không chứng. Thời kỳ nầy giáo pháp của Đức Phật vẫn còn tại quê hương Ấn Độ và lần đầu tiên di chuyển về phía Tích Lan cũng như Trung Âu, châu Phi và miền Bắc Ấn Độ, để từ đó tư tưởng Đại Thừa được phát triển qua sự xiển dương lý Vô Ngã, tánh không, trung đạo của các vị Đại Luận Sư như Vô Trước, Thế Thân, Mã MinhLong Thọ.

Nếu kể thời của Ngài Long Thọthời gian 300 năm đầu của Tượng Pháp (Ngài sinh ra sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn độ 800 năm). Thế mà Ngài đã biết rằng: Trong tương lai việc tu chứng không phải dễ dàng. Do vậy mà Ngài đã xiển dương pháp môn Tịnh Độ qua việc Niệm Phật và cầu vào tha lực của Đức Phật A Di Đà và qua bổn nguyện lực ấy, các chúng sanhthế giới Ta Bà sanh về Tây Phương một cách dễ dàng hơn. Rồi từ đó Ngài Thế Thân (người Ấn Độ) bắt cầu qua Ngài Đàm Loan (người Trung Hoa) cho tha lực ấy có cơ hội phát triển tại lục địa Á Châu rộng lớn nầy.

Nếu bảo rằng thời kỳ Mạt Phápthời kỳchúng sanh chỉ có tu, không hành và không chứng thì thời gian nầy chính thức bắt đầu vào cuối thế kỷ thứ 9 và đầu thế kỷ thứ 10 sau Tây lịch. Hay nói đúng hơn là cuối thời thịnh Đường của Trung Quốc. Thời nầy có các vị Tổ Thiền nhưng vẫn tu Tịnh Độ như Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ chẳng hạn. Đây là dấu mốc của lịch sử truyền thừa của Phật Giáo và là tư tưởng tối thượng thừa của những ai muốn nương vào câu Phật hiệu để giải thoát sanh tử luân hồi.

“Ngài Đạo Xước sinh năm 562 và tịch năm 645, là vị Tăng thuộc Tông Tịnh Độ đời nhà Đường, người Vấn Thủy, Tinh Châu (huyện Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây) có thuyết nói Ngài là người Tấn Dương, Tinh Châu, họ Vệ. Cũng gọi là Tây Hà Thiền Sư. Là Tổ thứ 2 của Tông Tịnh Độ, vị thứ 4 trong 7 vị Cao Tăng của Chân Ngôn Tông Nhật Bản.

Năm 14 tuổi, Sư xuất gia, học khắp các kinh luận, đặc biệt tinh thông kinh Niết Bàn và từng giảng dạy kinh nầy tất cả 24 lần. Sau, Sư ở tại chùa Huyền Trung do Ngài Đàm Loan sáng lập, nhân đọc Văn bia của Ngài Đàm Loan mà chuyển sang tín ngưỡng Tịnh Độ. Lúc ấy Sư được 48 tuổi, từ đó mỗi ngày Sư đều niệm Phật 7 vạn biến.

Suốt một đời, Sư giảng kinh Quán Vô Lượng Thọ tới hơn 200 lần; chủ trương bất luận là người xuất gia hay tại gia đều nên lấy việc niệm Phật làm cốt yếu. Trong lúc niệm Phật phải đếm những hạt đậu nhỏ gọi là “Tiểu đậu niệm Phật”, đây là khởi đầu của việc lần tràng hạt niệm PhậtTrung Quốc.

Năm Trinh Quán thứ 3 (629), Sư biết trước ngày tịch; nên họp chúng lại để từ biệt. Khi bốn chúng đông đủ, bỗng thấy Ngài Đàm Loan hiện thân bảo cho biết là dư báo chưa hết, nên Sư lại tiếp tục sinh hoạt như thường. Vua Thái Tông từng đến Thái Nguyên thăm Sư và ban cho nhiều báu vật. Đến năm 80 tuổi, sắc diện Sư vẫn hồng hào, thần khí sảng khoái, giảng giải về Tịnh nghiệp, lý nghĩa thông suốt.

Tháng tư năm Trinh Quán thứ 19 (645) Sư tịch, thọ 84 tuổi. Sư có các vị Đệ tử như: Thiện Đạo, Đạo Phủ, Tăng Diễn, Đạo Ngân.

Trứ tác: Luận Tịnh Độ 2 quyển, An Lạc tập 2 quyển”.

(Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 16752-1653). (Xem Tịnh Độ Vãng Sanh truyện quyển Trung; Phật Tổ thống kỷ quyển 28; Tục Cao Tăng truyện quyển 20, Luận Tịnh Độ quyển hạ).

Nếu niệm thong thả một tràng hạt 108 câu Phật hiệu đầy đủ sáu chữ Hồng Danh “Nam Mô A Di Đà Phật” thì phải cần ít nhất là 5 phút. Một giờ đồng hồ có 60 phút. Trung bình có 1.296 câu được niệm. Nếu niệm liên tục trong 24 giờ đồng hồ thì tổng số là 31.064 lần; nhưng nếu chỉ niệm A Di Đà Phật hoặc giả Di Đà Phật; nghĩa là không cần dùng chữ Nam Mô và chữ A phía trước niệm lướt nhanh trong đầu thì số lượng 70.000 lần có thể niệm trong một ngày một đêm được. Điều ấy có nghĩa là lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống, đại, tiểu tiện, lúc làm việc, giảng kinh, ngủ nghỉ v.v… lúc nào trong đầu cũng phải có câu Phật hiệu, thì mới được như vậy. Ở đây nói Ngài Đạo Xước mỗi ngày niệm 7 vạn câu Phật hiệu; tức là 70.000 lần. Quả là một công phu tu tập quá miên mật. Ngày xưa chưa có tràng hạt, mà phải dùng hạt đậu để tính số; cứ mỗi một câu Phật hiệu đã được niệm thì bỏ vào hay bỏ ra khỏi rổ một hạt đậu. Công phu hành trì của các vị Tổ Sư ngày xưa, bây giờ hầu như chẳng có ai theo chân nổi.

Lại trong Tiểu Sử của Ngài được cho biết rằng: Ngài đã giảng kinh Đại Bát Niết Bàn 24 lần. Điều nầy cũng thật là hy hữu. Bộ kinh nầy Đức Phật nói tại núi Linh Thứu, trước lúc thị tịch Niết Bàn cho các vị Bồ Tát, A La Hán, chư Thiênloài người nghe. Kinh nầy đã được dịch ra tiếng Việt; có 2 quyển. Mỗi quyển độ 700 trang. Riêng bản thân chúng tôi và Tăng, Ni chúng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, phát nguyện lạy kinh mỗi chữ mỗi lạy trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ từ sau rằm tháng tư đến rằm tháng bảy. Thường thường mỗi đêm lạy từ 250 đến 350 lạy như thế. Lạy ròng rã trong gần 10 năm qua; nhưng mới qua gần một nửa quyển thứ 2. Có lẽ còn đến 5 hay 6 mùa hạ nữa sau năm 2011 mới lạy xong bộ kinh nầy. Ở vào thời điểm năm 2011 mới lạy đến phẩm “Sư Tử Hống”. Lạy xong bộ kinh nầy có lẽ trên dưới 500.000 lạy. Thế mà Ngài Đạo Xước đã lặp đi lặp lại 24 lần bộ kinh quan trọng nầy. Vậy trong kim ngôn, ngọc ngữ của Ngài không biết bao nhiêu là triệu chữ kinh văn. Quả thật ngôn ngữ, lời văn, sự linh hoạt của các vị Pháp Sư Phật Giáo không biết dùng bao nhiêu lời mới có thể tán dương hết được công đức này!

Năm Trinh Quán thứ 3 (629) lúc ấy Ngài muốn thị tịch Niết Bàn; nhưng vẫn còn ở lại với đời để độ sanh, vì thấy hình ảnh của Đệ Nhất Tổ Tịnh Độ Tông là Ngài Đàm Loan hiện ra, có ý muốn Ngài Đạo Xước ở lại với đời thêm nhiều năm nữa để Phật Đạo được nhờ. Thế là Ngài đã kéo dài mạng sống của mình thêm 16 năm nữa. Mãi cho đến năm 645 thì Ngài đã vãng sanh Tịnh Độ.

Năm 629 cũng là năm Ngài Huyền Trang đúng 30 tuổi. Năm ấy Ngài Huyền Trang sang Ấn Độ để thỉnh kinh và suốt 17 năm trường đi về như vậy, Ngài Huyền Trang đã về lại Trung Quốc vào năm 646. Lúc ấy Ngài Đạo Xước đã viên tịch trước đó một năm rồi. Đây là thời thịnh Đường, Phật Giáo phát triển thật mạnh và Tịnh Độ lúc ấy cũng đã đơm hoa kết trái tại xứ sở Trung Quốc nầy.

“Ngài Đạo Xước (562-645) có trứ tác quyển An Lạc Tập gồm 2 quyển. Vào đời nhà Đường và đã thu vào Đại Chánh tạng tập 47. Cứ theo luận Tịnh Độ của Ngài Ca Tài nói, thì Ngài Đạo Xước tin theo Tịnh Độ giáo vào năm Đại Nghiệp thứ 5 (608) đời Tùy; lúc ấy đã 48 tuổi. Như vậy bộ kinh nầy có thể đã được viết vào khoảng năm 609 đến năm 645 Tây lịch. Về mục đích của bộ sách, có nhiều thuyết khác nhau, có thuyết bảo sách nầy là từ trong toàn bộ giáo nghĩa Phật Giáo mà rút tỉa ra những nghĩa chủ yếu của Tịnh Độ giáo, chứ không liên quan đến bộ kinh điển đặc biệt nào; có thuyết bảo sách nầy là trình bày ý nghĩa chủ yếu của ba bộ kinh Tịnh Độ, là sách khuyên người vãng sanh; cũng có thuyết bảo là giải thích yếu nghĩa của kinh “Quán Vô Lượng Thọ”, nhằm tuyên dương thực nghĩa của việc vãng sanh Tịnh Độ. Nội dung bộ sách do 12 môn lớn cấu thành. Trong sách, giáo pháp một đời của Đức Phật được chia làm 2 môn Thánh ĐạoTịnh Độ và cho rằng môn Tịnh Độ thích hợp với chúng sanh độn căn ở đời mạt pháp; cho nên đề xướng pháp môn niệm Phật, khuyên người ta niệm Phật cầu vãng sanh thế giới Cực Lạc. Đời sau, Nhật Bản chia Phật Giáo thành Thánh Độ Môn và Tịnh Độ Môn, chính đã bắt nguồn từ sách nầy.

Thời đại Ngài Đạo Xước đang chứng kiến sự kiện Vũ Đế nhà Bắc Chu bài xích Phật Giáo, tư tưởng Mạt Pháp trong Phật Giáo Trung Quốc lúc đó rất là phổ biến. Vấn đề tồn tại của Phật Giáo bị đe dọa thật sự. Lúc bấy giờ lại có các nhà thuộc tông Tam Luận cho rằng thuyết vãng sanh Tịnh Độkiến chấp hữu tướng, các nhà chú thích Luận Nhiếp Đại Thừa thì cho rằng Niệm Phật là “biệt thời ý”, rồi phần nhiều bài bác pháp môn Tịnh Độ. Bởi thế, trong sách nầy, Ngài Đạo Xước cũng đã biện luận rất nhiều về ý kiến đó.

Sách nầy còn căn cứ vào thuyết năm cái năm trăm năm nói trong kinh Đại Tập, mà chủ trương Phật Giáo Trung Quốc lúc bấy giờ đang ở vào năm trăm năm thứ tư, chúng sanh cần phải nương tựa vào Pháp Môn Niệm Phật mới có thể được cứu vớt, do đó mới cực lực đề xướng Pháp môn niệm Phật. Tư tưởng nầy, sau được học trò của Ngài là Sư Thiện Đạo tập đại thành. Tư tưởng nầy, sau khi được truyền vào Nhật Bản, ở thời đại Liêm Thương (Kamakura), đã trở thành cốt tủy trong Tịnh Độ giáo của các vị Pháp NhiênThân Loan. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 130).

Giáo lý chính của Đạo Phậtpháp duyên khởi; nghĩa là cái nầy sanh, nên cái kia sanh. Cái nầy có nên cái kia có; cái nầy diệt nên cái kia cũng diệt theo. Không có một vật nào độc lập cả, mà phải duyên vào nhau để tồn tại. Từ đó phải trải qua 4 giai đoạn là: thành, trụ, hoại, diệt (không) và tất cả mọi hiện tượng trên thế gian nầy xảy ra phải được nhìn nhận dưới sự nhận thức của Tứ Pháp Ấn. Đó là: Vô thường, khổ, không và vô ngã. Chỉ có Niết Bàn mới là tịch tịnh, an vui giải thoát. Do vậy An Lạc tập của Ngài Đạo Xước hình thành cũng không qua khỏi nhận định nầy. Ngoài ra, Ngài còn căn cứ theo Kinh Vô Lượng Thọ để giải thích, cũng như nhìn hình ảnh văn bia của Thầy mình (Đàm Loan) mà tỏ ngộ lý mầu, thì quả Phật Pháp môn trì danh niệm Phật đối với Ngài có một công năng vô tận.

Sau khi Phật Giáo được du nhập vào Trung Quốc thời Hậu Hán Minh Đế, Phật Giáo đã phát triển cực thịnh cho đến đời Vua Lương Vũ Đế (464-549). Thời kỳ nầy phải nói là thời của Thành và Trụ. Đến đời Vũ Đế nhà Bắc Chu, chính Ngài Đạo Xước đã chứng kiến, nhà Vua và triều thần phế Phật. Đây là thời kỳ hoại cũng như sắp đi đến chỗ diệt vong. Nếu không có Ngài Huyền Trang xuất hiện vào đầu nhà Đường thì Phật Giáo cũng sẽ bị lãng quên với lịch sử mấy ngàn năm của Trung Quốc. Do vậy thịnh rồi suy, suy rồi thịnh. Đó là chuyện bình thường của vũ trụvạn vật.

Trong “Luận A Tỳ Đàm về việc thành lập thế giới” Đức Phật không bảo rằng: Quả đất nầy tồn tại đến bao giờ, mà Đức Phật đã quy kết vào những điều sau đây:

- Nếu con người còn kính tin Tam Bảo

- Nếu con người còn tôn kính cha mẹ

- Nếu con người còn hòa hảo với anh chị em

- Nếu con người còn có tâm thương xót chúng sanh

thì lúc ấy quả đất nầy vẫn còn tồn tại. Bằng ngược lại, thì tuổi thọ của quả đất nầy sẽ mau giảm và lúc ấy sự hủy diệt con người cũng như muôn vật đang sinh sống trên hành tinh nầy sẽ có cơ nguy. Tuy nhiên mất rồi còn; còn rồi mất. Đó là định luật thiên thu của vũ trụ nầy.

Thật sự ra thì pháp không mạt, chỉ do con người làm cho pháp không phát triển mà thôi. Thời chánh pháp, tượng phápmạt pháp vẫn nội dung của giáo lý ấy, không có gì thay đổi; nhưng có thời có người tu chứng và có thời con người tu không chứng. Ấy là do con người, chứ không phải do pháp. Do vậy cho nên tùy theo từng thời gianhoàn cảnh khác nhau của mỗi một thời mà các vị Tổ Sư ra đời để dẫn dắt quần sanh đi về nẻo thiện. Có như thế Phật Pháp mới mãi mãi được truyền lưu.

Qua lịch sử mấy ngàn năm đã chứng minh được điều ấy. Đã có biết bao nhiêu triều đại vẻ vang cũng đã bước ngang qua lịch sử. Đâu có triều đại nào vững chãi mãi mãi với năm tháng trên ngai vàng? và hung ác, tàn bạo, trù dập Phật Giáo v.v… rồi các triều đại ấy cũng đâu có luôn vững bền với nhân tâmthế đạo. Chỉ có Đạo giáo mới là con đường đạo đức chính thống để mọi người có thể nương theo; nhằm củng cố đời sống tâm linh của mình. Từ đó vựt dậy một niềm tin và đứng vững một thời với đất trời và vạn vật; rồi lại biến đổi thăng hoa, rồi lại trầm luân khốn khổ; nhưng dầu cho bất cứ thời điểm nào, Phật Giáo vẫn có được những bậc Thiền gia Thạch Trụ, làm chỗ tựa vững chắc cho người Phật Tử nương tựa. Từ đó, Phật Giáo được mọi tầng lớp của thế gian nầy chấp nhận một cách dễ dàng như hơi thở của con người một cách tự nhiên hay như khí trời cùng vạn vật.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9054)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 9982)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 10152)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11005)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8987)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9453)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7994)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9229)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 11260)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8646)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9018)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 17427)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 12146)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 25998)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 9524)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 9364)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 9927)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 11287)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 9642)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 10212)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 13583)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 15898)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15535)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 18546)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18985)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18788)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 13780)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19091)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 11652)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23041)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19157)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 18269)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 8649)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 27019)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19911)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15252)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15475)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26778)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 16334)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19351)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19721)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19889)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18600)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 32401)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 20214)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 45884)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 6821)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22700)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 24343)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39203)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 20498)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19860)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 40743)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 18598)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 18439)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
(Xem: 9126)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14174)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 18149)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 17613)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 14655)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant