Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

02. Sự hình thành Phật Giáo Tịnh Độ tại Ấn ĐộTrung Quốc

20 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 8067)
02. Sự hình thành Phật Giáo Tịnh Độ tại Ấn Độ và Trung Quốc

Những bản văn căn bản của
PHẬT GIÁO TỊNH ĐỘ (A Di Đà) NHẬT BẢN

Nguyên tác Đức Ngữ: Christian Steineck

HT Thích Như Điển: dịch từ bản tiếng Đức ra tiếng Việt
so sánh với tiếng Nhật

II. Dẫn nhập

2. Sự hình thành Phật Giáo Tịnh Độ tại Ấn ĐộTrung Quốc

Khởi nguyên của sự tín ngưỡng Đức Phật A Di Đà xuất phátẤn Độ. Được biết bên cạnh Đức Phật lịch sử Thích Ca (Khoảng 450 - khoảng 370 trước Tây Lịch) ngay như theo truyền thống Tiểu Thừa còn biết đến Đức Phật Nhiên Đăng (Dipankara) như là vị Phật ở thời quá khứĐức Phật Di Lặc sẽ là vị Phật đến thế giới nầy trong tương lai. Được biết rằng mỗi một khoảng thời gian như vậy chỉ có một vị Phật hiện thân trong thế giới nầy. Về sau nầy trong khuôn khổ của Phật Giáo Đại Thừa được phát triển, dưới cái nhìn với nhiều vũ trụ ở trong nhiều thế giới, được mở rộng ra ở vô biên phương không cùng tận. Người ta tin rằng, cũng như vậy có vô số chư Phật và các Ngài đang hiện hữu trong một phần của thế giới nầy. Người ta phân biệt giữa thế giới thanh tịnhthế giới không thanh tịnh. Theo niềm tin tưởng nầy thì thế giới Tịnh Độ phải qua sự tích tụ những nghiệp tốt mà một Đức Phật tích chứa qua con đường giác ngộ. Ở cõi ấy tất cả chúng sinh được sinh sống và chính họ sẽ được đi đến con đường giác ngộ. Thế giới bất tịnh cũng là thế giới tự nhiên, trong đó chúng sinh có tất cả những điều tốt và ngay cả điều xấu, hạnh phúc cũng như khổ đau. Nên Tịnh Độmục đích mong ước tìm đến của những tín đồ; bởi vì được sinh ra ở nơi đó không có dấu hiệu của sự khổ đau hay một cuộc sống hạnh phúc, mà cũng là một con đường không cần cố gắng để đi đến điểm cao nhất của sự giác ngộ.

Trong sự liên hệ của việc giới thiệu thế giới với sự hiện hữu của việc quy ngưỡng Đức Phật A Di Đà (Ánh sáng vô lượng) hay vị có đời sống không giới hạn; những chữ nầy với tên gọi bằng tiếng Phạn; nhưng tiếng Nhật thì đọc là Amida cho đến đầu kỷ nguyên ở miền Tây Bắc Ấn Độ, có lẽ bị ảnh hưởng bởi giáo lý bái hỏa giáo của Iran. Chẳng bao lâu sau thì Đức Phật A Di Đà được tin tưởng như là một trong năm vị Phật của Phật Giáo Đại Thừa, mà một bậc giác ngộ không thể phân ly được cảnh giới tuyệt đối của chư Phật với sự hóa thân trong hiện tại kia. Năm vị nầy ở một phương đã định trước và đồng thời tượng trưng cho một ý nghĩa của chư Phật. Bởi vì tín ngưỡng A Di Đà được phát triển từ miền tây Ấn Độ và điều ấy liên kết với phương hướng nầy; quốc độ ấy về sau trở thành biểu tượng của “cõi nước Tịnh Độ Phương Tây”. Đặc điểm của Đức Phật ấy là có lòng từ bi vô lượnghiện thân đặc biệt của Đức Phật A Di Đà. Trong lúc niềm tin nơi Đức Phật A Di Đà còn tồn tạiẤn Độ, cũng có thể nói là còn giữ lại ở khắp nơi, thì đặc biệt văn hóa ở ngoài xứ Tây Bắc đã phát triển một sự tôn thờ “Đức Phật Vô Lượng Thọ”. Việc thờ phượng đặc thù nầy trải dài ở Trung Á, Trung Quốc và sau nầy được phát triển ở Nhật Bản, trở thành một hướng tin độc lập của “Phật Giáo Tịnh Độ”.

Nội dung căn bản kia là nằm trong ba kinh tương đối ngắn (văn tự) căn bản gồm: Đại Vô Lượng Thọ Kinh; Kinh Tiểu Bản A Di ĐàKinh Quán Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ có lẽ là kinh có văn tự cũ nhất trong ba kinh. Nội dung diễn tả về việc thệ nguyện của Đức Phật A Di Đàquốc độ của Ngài, mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trả lời cho câu hỏi của đệ tử A Nan. Đức Phật kể lại về lịch sử của Phật A Di Đà đến Phật quả. Ở vào một thuở xa xưa, Ngài là một vị Bồ Tát (Nghĩa là sẽ thành Phật khi đã giải thoát cả vũ trụ), với tên là Pháp Tạng, Ngài đã tìm ra một con đường để cứu tất cả chúng sanh để đi đến sự giác ngộ. Với mục tiêu nầy Ngài đã lập lời thệ nguyện, rằng: chỉ khi nào chứng được ngôi chánh giác và khi Ngài thành Phật thì quốc độ sẽ được an bìnhhạnh phúc; ở nơi ấy là điều kiện dễ dàng nhất để được thành tựu giác ngộ.

Ở nơi ấy chẳng hề có những hình thức tồn tại xấu ác như (chúng sanhcõi địa ngục, súc sanhngạ quỷ - lời nguyện thứ nhất) mà cũng chẳng phải lo sợ trở lại ác đạo kia. Tất cả những chúng sanh của cõi đó sống hoàn toàn với sắc đẹp với trí tuệ vẹn toàn, cũng như có khả năng thần thông biến hóa và nơi đó được miêu tả gồm toàn là những vị Bồ Tát (lời nguyện thứ 3 đến thứ 9). Ngoài racõi nầy đẹp đẽ và những việc cần thiết cho con đường đi đến giác ngộ, chúng sanh ở nơi đó có tất cả. Đặc biệt được nhấn mạnh rằng nơi ấy không còn cảnh chết chóc ngự trị và được chiếu sáng bởi ánh sáng vô lượng quang của Đức Phật.

Điều đặc biệt cõi Cực Lạc nầy khác với những cõi Phật khác, là ở nơi đây ai cũng có thể vãng sanh đến được, nếu họ chí tâm muốn tái sanh về đó (ngoại trừ nhóm bị trọng tội). Căn cứ theo bản kinh cổ xưa của Ấn Độ, người ta phải chí tâm trong mười niệm về cảnh giới của Đức Phật A Di Đàhồi hướng tất cả công đức trong cuộc sống cho việc vãng sanh về cảnh giới Cực Lạc để thật sự đạt được mục đích sanh về đó (lời nguyện thứ 19). Sau nầy trong những bản dịch bằng chữ Hán cả hai điều kiện nầy đã trở thành trong 2 lời thề nguyện khác nhau; như thế thì với cách diễn tả ấy chỉ cần 10 niệm nhất tâm là đủ để sanh về thế giới của Đức Phật A Di Đà.

Phần thứ hai của Kinh Đại Bản Di Đà được cho biết rằng: Ngài Pháp Tạng Bồ Tát thực sự đạt được mục đích ấy và Ngài đã trở thành Đức Phật A Di Đà với sự thực hiện tất cả những lời nguyện của Ngài. Vẽ trang nghiêm của quốc độ cuối cùng đã được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni một lần nữa tán thán nhiều.

Trong kinh tiểu bổn Di Đà thành hình sau nầy thì điểm chánh nằm nơi sự mô tả cõi giớinhân dân ở nước Cực Lạc ấy. So với Đại Bản có nhiều điểm thay đổi trọng yếu như sau:

Thứ nhất là Đức Thích Ca Mâu Ni tự thuyết giảng không qua lời thưa thỉnh của những đệ tử Ngài, mà bắt đầu do chính Ngài nói về cảnh giới của Đức Phật A Di Đà. Vì vậy sau nầy trong Phật Giáo Tịnh Độ được cho rằng Đức Thích Ca Mâu Ni đã nhấn mạnh điểm chính trong giáo lý của Ngài nơi đây; và như vậy niềm tin Đức A Di Đà đã ngự trị ưu tiên trên tất cả những giáo lý khác của Phật Giáo ban đầu.

Điểm thứ hai được thấy ở trong kinh nầy là sự liên hệ rõ ràng qua việc đề cập đến thời gian hữu hạn, mà việc nầy có lẽ được đón nhận từ không gian của Á Rập. Theo tư tưởng nầy thì thế giới đang trong tình trạng tiếp tục suy tàn, trong ấy con người không có khả năng để nhìn nhận sự thật và thay đổi được cuộc đời của họ.

Điều thứ ba trong kinh nhấn mạnh rằng con người chẳng thể qua công đức tự có của mình, mà phải nương theo lòng từ của Đức Phật A Di Đà để được sanh về thế giới của Ngài. Con người có thể được bảo đảm qua lời thệ nguyện nầy; ở trong ấy chỉ chuyên niệm danh hiệu của Ngài và để cầu Ngài giúp đỡ. Qua điều nầy kinh đã rời khỏi tư tưởng Phật Giáo ban đầu; nghĩa là sự giải thoát ấy không phải đến từ bên ngoài mà qua sự chứng ngộ đầy đủ bên trong cũng như lý trí trong sự chứng thật của mọi việc.

Quyển kinh thứ ba có thể chẳng phải được hình thành tại Ấn Độ, mà được thành hìnhTrung Quốc. Tuy vậy những tín đồ vẫn tin rằng đây là lời của Đức Phật diễn tả 16 loại thiền định của Đức Phật Vô Lượng Thọ; qua đó sự quán tưởng đến Ngài cũng như quốc độ của Ngài rất được hoan nghênh. Sự quán tưởng nầy giúp cho con ngườinăng lực, Tuy gặp phải những chướng duyên; nhưng cũng có thể sống theo luân lý của Đức Phật. Kinh nầy cho rằng việc vãng sanh về Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà lệ thuộc vào một cách sống như trên.Ý nghĩa đặc biệt của sự quán tưởng đến Đức Phật là một phần trong lời dạy của kinh nầy, tuy nhiên Đức Thích Ca Mâu Ni đã chẳng hướng sự chú ý cho đệ tử của Ngài, mà dành cho Hoàng Hậu Vi Đề Hy; người bị chính con của mình giam vào ngục thất. Bà là sự tượng trưng cho sự đau khổ quá nhiều của con người, mà chẳng có một năng lực tinh thần nào có thể cứu khỏi. Bởi vì những người đàn bà, theo cái nhìn trong kinh nầy, là những người thua kém và bị những người đàn ông xem thường. Điều mà Đức Thích Ca Mâu Ni trực tiếp dạy cho bà Vi Đề Hy và sau nầy Ngài dạy cho tất cả mọi người hướng về phía Đức Vô Lượng Thọ, mà những người ấy không tự lực để giác ngộ cho chính mình.

Bên cạnh ba kinh bên trên, về sau trên con đường phát triển về Tịnh Độ Giáo còn có 2 kinh được rút ra từ hoàn cảnh của Ấn Độ nữa, viết đầy đủ uy tín thuộc Phật Giáo Đại Thừa. Trong đó có quyển “Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận (luận về sự giác ngộ qua 10 địa vị của Bồ Tát)”. Đây chính là những lời dạy nổi tiếng của Ngài Long Thọ thuộc miền nam Ấn Độ.

Long Thọ (dường như sống vào khoảng 150–250 sau Tây Lịch) là một trong những triết giatư tưởng định hướng. Ngài phát triển giáo nghĩa Trung Đạo giữa ý tưởng của tính chất thực tế theo kinh nghiệm như là thực tại và sự giảm thiểu để đi đến tính không tuyệt đối. Sự vật chẳng những có thật mà còn là sự trống không. Chúng có đó nhưng lại “trống rỗng”. Nghĩa là chúng chẳng có thực tướng riêng lẽ; chẳng một chúng sanh nào mà nằm ngoài nhân duyên sanh diệt trong thế giới nầy. Triết học biện chứng luận của Long Thọ đã có thẩm quyền cho nhiều tông phái của Đại Thừa.

Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận nầy nay chỉ còn bản văn chữ Hán (và trong nầy thì không rõ ràng như bản chính), hướng về với nhiều con đường khác nhau để có thể tiến tới quả vị Bồ Tát nhằm được giác ngộ. Tác giả giải thích nhiều cách khác nhau để có thể dễ thực hành, trong đó chứa đựng cả sự hứa khả chắc chắn của một vị Phật cho một vị Bồ Tát và qua năng lực cất nhắc nầy sẽ tiến nhanh hơn cho việc giác ngộ. Những nhà lý thuyết của Tịnh Độ Tông về sau nầy giải thích như là một sự thanh minh. Cuối cùng tìm đến ân đức qua lời thệ nguyện của Đức Phật Di Đà để đi đến con đường tự giác ngộ, chẳng phải là con đường khó khăn mấy.

Trong khi những tác phẩm của Long Thọ còn chưa tìm ra được những sự liên quan trực tiếp về việc tôn kính Đức Phật A Di Đà, khi Long Thọ còn sống tại miền Nam xứ Ấn Độ, thì lúc ấy niềm tin A Di Đà đã phát triển ở miền Tây Bắc rồi. Điều cốt yếu là giữa hai bản văn về việc bình chú kinh Tiểu Phẩm của học giả Thế Thân ở miền Bắc Ấn Độ (thuộc thế kỷ thứ 4 hay thứ 5 sau Tây Lịch) đã được biên soạn. Đồng thời Ngài Thế Thân cũng đã viết hàng ngàn tác phẩm và về sau nầy nhiều tông phái của Đại Thừa lấy đó làm lý thuyết căn bản. Ngài đã triển khai về giáo lý “Phật Tánh” mà sau nầy hầu như tất cả những quan điểm của Nhật Bản về chúng sanh đều lấy đó làm chủ yếu và với họ tiềm lực giác ngộ có thể có được. Ngài đã bình luận nhiều bản văn căn bảnchắc chắn rằng chẳng có một lần nào biện hộ riêng cho việc tôn kính Đức Phật A Di Đà. Tuy vậy, trên thực tế Ngài đã giới thiệu về sự sùng bái Đức Phật A Di Đà qua tác phẩm: “bình chú về kinh Tịnh Độ” của Ngài. Với những người theo giáo nghĩa Tịnh Độ thì đây là sự hướng về việc giải thích cho niềm tin kia và xem Ngài Thế Thân như là một trong những vị Tổ Sư của giáo lý nầy.

Sự phát triển về niềm tin A Di Đà (phía dưới sẽ chỉ còn dùng theo tên gọi bằng tiếng Nhật) cho một sự tự chủ; ngoài ra khoảng thế kỷ thứ 5 sau Tây Lịch niềm tin ấy đã bắt đầu ở Trung Quốc. Nơi ấy được hình thành bởi Ngài Huệ Viễn (334-416) gồm một nhóm khoảng 100 người, đã tự hướng về việc thiền định qua sự hồi hướng đến Đức A Di Đà. Tuy nhiên nhóm nầy cũng bị ngưng trệ trong thời gian ngắn sau khi sư phụ của mình viên tịch.

Một đoàn thể có niềm tin vững chắc đầu tiên được hình thành vào thế kỷ thứ 6 ở miền Bắc Trung Hoa trong thời gian nầy đã bị ảnh hưởng bởi chiến tranh và nghèo đói. Tiếp đến Ngài Đàm Loan (khoảng 488–554) và Ngài Đạo Xước (562-645) đã tìm cách hình thành sự sùng bái Đức A Di Đà làm chủ yếu của sự Thánh Thiệngiáo lý giải thoát nầy chính là nền tảng cho niềm tin kia; dùng những bản văn được truyền từ Ấn Độ qua Trung Hoa làm chuẩn. Bên cạnh đó các Ngài đặc biệt lưu tâm về thời mạt pháp mà các Ngài đã tìm ra qua những kinh sách đã có trước ở Ấn Độ và những điều ấy đã giúp cho họ miêu tả rõ ràng trong thời gian riêng lẽ nhất định. Họ quan niệm rằng, con người sống dưới bất cứ hoàn cảnh nào, khi đã bị hận thùtham vọng chế ngự; thì họ chẳng thể tự giải thoát được. Qua lời thệ nguyện của Đức Phật A Di Đà hứa giúp đón nhận mọi người về cõi Tịnh Độ và được vãng sanh; điều ấy cho họ thấy chỉ còn một con đường cứu giúp duy nhất là có thể. Từ lý do nầy mà các Ngài đã giải thích rằng niềm tin kính tất cả các vị Phật khác là phụ, nếu nói cách khác là chẳng tốt và đặc biệt sùng bái Đức Phật A Di Đàvị trí cao nhất.

Tác phẩm chính của Đàm Loan là “vãng sanh luận chú” cũng như “Tịnh Độ Luận Chú” đã là những giải thích từ kinh Tiểu Bản A Di Đà qua sự giải thích cũng như viết lời bình luận của Ngài Thế Thân. Ở đó trên hết Ngài đã nhấn mạnh về lời thệ nguyện của Đức Phật A Di Đà với mọi người cũng như những tội lỗi đã có sẵn cũng có thể thành tựu, được sanh về nơi quốc độ của Ngài. Như vậy Ngài (Đàm Loan) đã đặt viên đá đầu tiên cho sự chuyển hướng của một Tôn Giáo; đặc biệt cho những tín đồ có sức lôi cuốn lớn mạnh hơn, bởi vì với họ, con đường giải thoát đã được mở ra.

Đàm Loan khuyên 5 việc cho người thực hành sùng bái nơi Đức Phật (niệm Phật) đó là: Lễ bái Đức A Di Đà với lời mong cầu được sanh về thế giới của Ngài; tán thán ca ngợi danh hiệu của Ngài; phát lời thệ nguyện sanh về Tịnh Độ; quán tưởng Đức A Di Đàcảnh giới của Ngài và hồi hướng tất cả những công đức đến với tất cả chúng sanh. Với những sự thực hành đơn giản ấy mà do lòng từ vô lượng qua lời nguyện của Đức Phật A Di Đà sẽ đủ để được vãng sanh về thế giới của Ngài; bởi vì Đàm Loan đã giải thích rằng con người qua việc niệm danh hiệu của Phật A Di Đà đã được đồng nhất nối kết lại với Ngài. Danh hiệu ấy đã chứa đựng đầy đủ năng lực của Đức Phật nầy và qua sự trì danh, con người sẽ được mang đến quốc độ đó.

Tư tưởng tiếp theo của Đàm Loan là sự sanh về Tịnh Độ ấy là do tất cả ý nghĩa của sức đẩy (của Đức A Di Đà) làm cho con người có thể sanh về cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà, không qua một trung gian nào cả. Những vị được sanh về sẽ trở thành Bồ Tát với một tâm thanh tịnh và một năng lực trí tuệ siêu phàm. Như vậy không cần thiếtlý do nào mà con người hướng đến với Phật A Di Đà. Ngay cả bất cứ ai, chỉ cần nghe qua sự tường thuật lại, sự trang nghiêm của cảnh giới ấy mà cũng thấy thích thú khi vãng sanh về cõi Tịnh Độ sẽ trực tiếp thành tựu qua những cấp bậc cao nhất ở đó.

Đạo Xước thì cho đến giữa đời, lần đầu tiên Ngài mới hướng về Tịnh Độ, sau khi Ngài thấy được Ngài Đàm Loan cung kính nơi một điện thờ tại một ngôi chùa, đó là bước đầu về sự phát triển niềm tin A Di Đà dưới khía cạnh thói quen của quần chúng. Điều mà một vị Đại sư nổi tiếng đã chọn con đường đơn giản để đến sự giải thoát và chính Ngài đã gây nên ấn tượnggiáo lý mà Ngài đã noi gương theo. Điều đặc biệt quan trọng đối với Đạo Xướctư tưởng thế giới nầy đang ở thời kỳ mạt pháp. Trong tác phẩm: “An lạc tập” của Ngài đã gọi sự giải thoát qua lời nguyện của Đức Phật A Di Đà là “cánh cửa của Tịnh Độ” so với “cánh cửa giải thoát”; với cái nhìn ấy của Ngài bây giờ đã được đóng kín lại. Bởi vì qua cái nhìn của Ngài, chẳng có người nào tự có thể giải cứu được sự xấu xa tội lỗi của mình, vì họ đã bị thế giới cột chặt, mà Ngài đã chối từ qua sự cố gắng giải thoát khác; ngoại trừ dựa theo lời thệ nguyện của Đức Phật A Di Đà.

Sự sắp đặthệ thống nhất thời của giáo lý Tịnh Độ đã được hình thành qua người đệ tử của Đạo Xước là Ngài Thiện Đạo (613–681) với giáo nghĩa của Tịnh Độ ở Trung Hoa. Ngài Thiện Đạo sống ở Trường An; nơi kinh đô của nhà Đường. Ngài đã nhận được sự kính trọngHoàng Gia cũng như những vị Tăng sĩ cùng thời với Ngài. Cho nên Ngài có đầy đủ khả năng quyết định thiết lập Tịnh Độ như là sự độc tôn và được công nhận bởi niềm tin trong đạo Phật.

Tác phẩm chính yếu nhất của Ngài là “Quán Vô Lượng Thọ kinh Tứ tập sớ” (Bốn quyển sớ giải về kinh Quán Vô Lượng Thọ). Để tiếp tục phát triển về sự thực hành tin tưởng ấy, hai quyển rất quan trọng, đã hướng dẫn việc thực hiện những loại khác nhau về Thiền Định với Đức Phật A Di Đà. Thiện Đạo chính Ngài cũng đã làm sáng tỏ cho riêng mình một giá trị lớn và tạo ra một kỹ thuật quán tưởng về Đức Phật A Di Đà. Đồng thời Ngài cũng đã giải thích về tác phẩm của Ngài rằng việc trì danh niệm Phậthoàn toàn đầy đủ, để được sanh về thế giới Tịnh Độ và Ngài cũng đã tìm cách qua sự dẫn chứng nầy từ uy tín của văn tự để sắp đặt nên. Ngài còn hướng dẫn cho việc niệm Phật như là một hành động duy nhất đứng đắn và đầy đủ cho việc tái sanh về đó. Trong 5 việc thực tập mà Ngài Đàm Loan đã tuyển chọn thực hành, theo Thiện Đạo thì việc niệm Phật quan trọng hơn cả và 4 cách kia chỉ giữ vai trò hỗ trợ mà thôi.

Thiện Đạo tin rằng sự xấu ác không tránh khỏi đối với loài người. Ngay cả ai cho rằng cuộc đời trong hiện tại của họ không có tội lỗi thì theo quan điểm của Thiện Đạo cho rằng điều nầy không thật sự đúng; bởi vì trong vô lượng kiếp sống người nầy cũng đã tạo ra với tất cả những hành động tội lỗi. Cho nên chẳng có một người nào có một nghiệp tốt cả để có thể tự năng lực của mình mà được sanh về Tịnh Độ, huống chi nói đến việc giác ngộ tuyệt đối. Theo như vậy thì những điều kiện cho tất cả mọi người dầu cho Tăng sĩ hay tín đồ, hàng vương bá hay nông dân, đàn ông hoặc đàn bà tất cả đều giống nhau. Mọi người đều lệ thuộc hoàn toàn vào lời thệ nguyện của Đức A Di Đà; nếu họ muốn đạt đến sự giải thoát. Sự chấp nhận của hành động tội lỗi của mình, đối với Thiện Đạo là điều trọng yếu cho điều nhận thức trong tâm mình. Qua điều nầy, con người trên thực tế đã đến với Đức A Di Đà từ ba yếu tố (chí tâm, tín nhạo, dục sanh). Điều nhấn mạnh về tín ngưỡng là một điểm mới trong giáo lý Tịnh Độtrở thành rất quan trọng cho sự phát triển của Tịnh Độ Tông Nhật Bản.

Mặc dầu Ngài Thiện Đạo đã góp phần quan trọng cho hệ thống căn bản của giáo nghĩa Tịnh Độ để cho người bình dân cũng có cơ hội giải thoát; nhưng tư tưởng của Ngài vẫn còn ảnh hưởng bởi truyền thống, đòi hỏi con người phải tự sửa đổi lỗi lầm của chính mình. Cho nên Phật Giáo Tịnh Độ ở Trung Hoa còn giữ tư tưởng, mà con người phải qua sự tinh tấn mới có thể đến được chốn giải thoát.

Thế hệ tiếp theo sau Thiện Đạo xuất hiện cho bây giờ làm căn bảnhệ thống đầy đủ cho văn học và việc nầy đã được giải thích qua tư tưởng, giải thích về sự ngờ vực và hướng dẫn cho sự thực tập. Đầu thế kỷ thứ 8 giáo nghĩa Tịnh Độ đã phát triển rộng rãi ngay cả lý thuyếtthực hành, đã giới thiệu một Tông phái riêng biệt; mà tông phái ấy đã đáp ứng được nhu cầu và nguyện vọng tôn giáo của tín đồ. Tông phái nầy đóng một vai trò quan trọng trong mọi chi phái Phật Giáo khác, mà nơi đây vị trí của người nữ và tín đồ giữ một vai trò quan trọng. Qua sự phát triển mà ta thấy của Ngài Thiện Đạo cho biết rằng, tất cả mọi người của thời mạt pháp đều giống nhau trong sự giải thoát và đã làm thay đổi sự quan hệ xã hội của sự phát triển về niềm tin.

Đương nhiên với sự thành công của Tịnh Độ giáo nghĩa cũng tạo nên nơi những trường phái khác, sự bất tínphê bình. Đặc biệt điển hình là những vị Thầy của Tông phái Thiền, nghĩa là giáo nghĩa của Tịnh Độ đã làm cho con người hiểu về cuộc đời sai hơn; bởi vì họ cho rằng việc bỏ ác là không làm được. Ngược lại những tín đồ của Tịnh Độ Tông đã ngạo mạn với những vị Thầy của Thiền và than vãng rằng những vị nầy đã phủ nhận vô lượng pháp môn của Đức Phật để chứng minh cho con đường đến chỗ Thánh thiện, mà những lời dạy ấy phải hợp với căn cơ của chúng sanh. Cuối cùng người ta nên tìm đến một con đường mà cả hai pháp môn đều có thể đi chung trên một mặt phẳng cao hơn. Cho nên Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ (904–975) đã tổng hợp cả hai con đường của Thiền và Tịnh Độ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8636)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9076)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 9987)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 10162)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11014)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8993)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9466)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8000)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9260)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 11278)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8673)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9035)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 17434)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 12157)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 26033)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 9530)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 9367)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 9942)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 11299)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 9662)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 10224)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 13618)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 15921)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15555)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 18565)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18997)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18811)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 13783)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19110)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 11668)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23074)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19182)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 18282)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 8673)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 27039)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19934)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15268)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15484)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26790)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 16350)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19361)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19728)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19903)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18605)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 32420)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 20232)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 45903)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 6829)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22719)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 24349)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39219)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 20505)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19864)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 40753)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 18605)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 18455)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
(Xem: 9141)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14188)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 18158)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 17626)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant