Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Sống Trong Bổn Nguyện Của Phật A Di Đà

31 Tháng Ba 201517:30(Xem: 7393)
Sống Trong Bổn Nguyện Của Phật A Di Đà
SỐNG TRONG BỔN NGUYỆN CỦA PHẬT A DI ĐÀ

Nguyễn Thế Đăng


Sống Trong Bổn Nguyện Của Phật A Di ĐàTất cả chúng ta đang sống trong Ánh sáng Vô lượng (Vô lượng Quang) và Đời sống Vô lượng (Vô lượng Thọ), trong bổn nguyện của Phật A Di Đà, điều đó được nói trong 48 lời nguyện của Tỳ kheo Pháp Tạng (Dharmakara), tiền thân của Ngài.

Những ước vọng của kiếp nhân sinh và những khổ đau - mặt trái của ước vọng không thành của con người - đều được gói trọn trong bổn nguyện của A Di Đà. Bổn nguyện đó là Ánh sáng Vô ngại (Vô Ngại Quang Như Lai) có thể soi thấu đến những chỗ tối tăm nhất trong lòng người và xuyên qua những chất cứng nhất trong thế gian, cái bản ngã cứng đặc kiên cường và đen tối, và như thế, năng lực chuyển hóa của bổn nguyện là vô hạn. Bổn nguyện là tấm lưới của ánh sáng và đại bi trùm khắp chúng sinh ba cõi, chỉ cần một niềm tin chân thành là tấm lưới ấy hoạt động để đưa chúng ta đến với ánh sáng tỏa chiếu tình thương vô tận.

48 lời nguyện ấy đã thành tựu từ rất lâu xa, khi Bồ tát Pháp Tạng thành Phật đến nay đã được mười kiếp (một kiếp gồm 4.320.000.000 năm, theo cách tính của Aán Độ thời cổ, y cứ lời của Đức Phật Thích Ca dạy trong kinh A Di Đà (Xá Lợi Phất! A Di Đà Phật thành Phật dĩ lai ư kim thập kiếp). Vì lý do đó mà những lời nguyện trên được gọi là bổn nguyện. Chúng ta đang sống trong bổn nguyện, trong ánh sáng vô lượngđời sống vô lượng mà theo ý niệm nhị nguyên của con người, chúng ta có thể hiểu rằng, ánh sáng vô lượngtrí tuệđời sống vô lượng là tâm đại bi của A Di Đà.

Cái làm cho chúng sinh tiếp xúc được với bổn nguyện của A Di Đàđức tin. Trong 19 lời nguyện nhắm đến tất cả chúng sinh trong vũ trụ ấy, đều mang nội dung của đức tin. Đức tin ấy có thể hình dung qua những yếu tố sau đây :

  • Một ý thức sâu sắc về tính hữu hạn, thất thường, bất định, mâu thuẫn và phải chết của con người\. Nếu chỉ đích danh hơn, những tính chất hữu hạn, mâu thuẫn nội tại ấy là đặc tính của cái ngã và những hoạt động phiền não của nó. Và trong tình trạng hiện thời, toàn bộ đời sống con người dựa vào cái ngã và những hoạt động tạo nghiệp của nó, hậu quả tất yếu là những khuyết điểm, lầm lỗi và khổ đau mà chúng ta gọi là sanh tử. Nhưng để thoát khỏi cái ngã đó, với phần đông con người là không thể, vì làm bất cứ điều gì, dù tu hành để giải thoát hay làm tốt cho người khác thì vẫn nằm trong sự giật dây của cái tự ngã, chỉ làm cho cái ngã, phụng sự cái tự ngã. Với con người, không phải bao giờ cũng có thể có vị tha thực sự, lợi mình lợi người thực sự, vì thông thường có cái ta phản trắc luôn ở trung tâm của mọi hành động. Không giải quyết được khổ đau của mình, đồng thời chúng ta cũng gieo rắc khổ đau cho người khác. Nói theo hình ảnh của kinh Pháp Hoa, chúng ta là những đứa con khốn cùng, dù có may mắn nghe được cha mình giàu có đến trùm khắp vô vàn thế giới đang ở nơi xa kia chờ mình thì cũng không đủ sức trở về, dù có người dẫn dắt. Đôi chân con người đã mỏi mệt vì khổ đau của sinh tử, trí óc đã quá nặng nề vì những màn ảo hóa Ẩ và chỉ khi thấy rõ sự hữu hạn, nhỏ bé và bất lự c của mình, thấy sự mâu thuẫn nằm trong chính nền tảng của bản thân, con người khổ đau đó mới mở mình ra trước lời kêu gọi của đại nguyện của Phật A Di Đà.
    Chúng ta không biết làm gì hơn là phó thác, hiến mình và tin cậy. Khi tự lực trong mức độ chúng sinh chỉ là thất thường, mâu thuẫn nội tại, chính lúc đó, bắt đầu sự lắng nghe sâu xa tiếng kêu gọi của bổn nguyện, sự chấp nhận phó thác cho công việc đại bi của Phật A Di Đà. Một chuyển hóa bắt đầu xảy ra, con người từ bỏ những bất toàn, những xung đột mâu thuẫn nội tại của mình, để đi vào nguyện lực của Đức A Di Đà. Do đó con người thấy ra tha lực.
  • Không chỉ để đối phó với khổ đau, đức tin còn là một mong mỏi bất tuyệt về một cõi không có ba đường ác (lời nguyện thứ nhất), thậm chí không có cả một danh từ để chỉ một sự ác nào (lời nguyện thứ 16). Tích cực hơn, đức tin còn là một tình cảm nồng nhiệt đối với tất cả những gì đẹp đẽ, thanh tịnh đối với cõi nước, con người lành thánhẨ của Phật A Di Đà. Chính sự kính ngưỡng đối với cõi Tịnh độ và Phật A Di Đà sẽ chuyển hóa những đam mê vào cõi dục của chúng ta, nguyên nhân của những phiền não khổ đau.
  • Cuối cùng, đức tin đó khiến chúng ta mở tâm thức, mở tấm lòng để đón nhận ánh sáng của lòng bi A Di Đà. Trong các kinh Nikàya, có thuật lại rằng khi Đức Thích Ca giác ngộ, Ngài nhìn lại thế gian, quan sát chúng sinh như những hoa sen, có cái còn nằm trong bùn, có cái lên trong nước, có cái đã ra khỏi nước và có cái bắt đầu nở hoa, thấy thế, Đức Phật đã quyết định chuyển bánh xe pháp để đem lại lợi lạc cho chúng sinh. Với đức tin vào Phật A Di Đànăng lực đại bi trùm khắp của Ngài, đoá hoa sen tức Phật tánh của mỗi người sẽ vươn lên và nở hoa trong ánh sánh vô lượngđời sống vô lượng.

Đức tin là cái nối kết con người với lời kêu gọi ngập đầy thương yêu và ân điển Ố tức là 48 lời nguyện của Đức A Di Đà Ố với ánh sáng vô lượngđời sống vô lượng Ố tức là bản tính của Đức A Di Đà. Nhưng sự kêu gọi và sự đáp trả còn thể hiện cụ thể, đó là niệm danh hiệu "Nam mô A Di Đà Phật", "Nam mô" là sự trở về trong tâm linh của đưá con cơ nhỡ, lạc loài, vô phương tự thoát và "A Di Đà Phật" là quê nhà của nó, sự sống và là ánh sáng của nó.

Niệm Phậtthể hiện đức tin ấy. Trong 19 lời nguyện nhắm đến các chúng sinh ở ngoài cõi Tịnh độ, có đến 14 lời nguyện nói đến "niệm danh hiệu" và "nghe danh hiệu". Như thế, danh hiệu A Di Đà chính là Phật A Di Đà. Niệm danh hiệuphương pháp được nói đến nhiều nhất trong những phương pháp để tiếp thông với Đức Phật. Niệm danh hiệu chính là đi về Tịnh độđi vào bản tính của Phật, đồng thời làm hiện thân Tịnh độbản thân Phật A Di Đà giữa thế gian.

Như trên đã nói, niệm danh hiệu được nhắc đến nhiều nhất trong các đường lối để tiếp cận với Phật A Di ĐàTịnh độ. Niệm Phật là để sinh về Tịnh độ, nơi không có những tranh chấp mâu thuẫn giữa ta Ố người, ta Ố thế giới, và ta với chính ta, những mâu thuẫn muôn đời không thể nào giải quyếtđời sống vận hành theo chiều hướng tư duy hữu ngã này.

Niệm Phật A Di Đà là niệm ánh sáng vô lượng, do đó thải trừ bóng tối vô minh nơi mình. Niệm Phật A Di Đà là niệm đời sống vô lượng, do đó thải trừ sinh tử nơi mình. Như vậy, niệm danh hiệu đúng nghĩa chính là đang thực hiện sự tịnh hoá. Nó không chỉ là loại bỏ sự sợ hãi trước bóng tối và cái chết, mà còn đưa con người đến với ánh sáng vô lượngđời sống vô lượng, nghĩa là khai mở Phật tánh trong mỗi người, như Tỳ kheo Pháp Tạng đã thành tựuứng dụng để tạo thành Tịnh độ trước đây mười a tăng kỳ kiếp.

Bắt đầu niệm Phật là bắt đầu sự chuyển hoá. Mỗi câu niệm Phậtmột lần chuyển hóa. Sự chuyển hoá này xảy ra tại đây và bây giờ, thải trừ năm độc tham, sân, si, kiêu mạn và đố kî trong thân tâm mỗi người\. Như thế, con đường đi về Tịnh độ bắt đầu ngay lúc này và tại đây, bằng danh hiệu Phật. Lấy một hình ảnh thí dụ của Đại thừa, Phật A Di Đà ví như một mặt trăng giữa trời, mà mỗi câu niệm Phật như một chậu nước, mỗi chậu nước có một mặt trăng trong đó. Niệm Phật đến mức mặt trăng in hẳn vào dòng hiện sinh của hành giả, không còn tách lìa, dù ở đâu và lúc nào. Khi đã thật sự có mặt trăng Phật thường trực trong lòng, sự tái sinh về Tịnh độ khi chết ắt là một tiến trình tất yếu.

Theo Kim Cương thừa, Phật A Di Đà ở về phương Tây trong Ngũ Trí Như Lai, là chủ của Liên Hoa bộ. Thành tố của bộ này là lửa và màu là màu đỏ. Phật A Di Đà ngồi trên một tòa sen do một con công đội. Con công ăn thức ăn độc và chuyển hóa thành màu lông rực rỡ của mình, càng độc lông càng đẹp. Bộ Liên Hoa chuyển hóa tham dục của cõi này thành trí tuệ, biến ái dục của cõi dục này thành từ bi. Bởi thế, khi nào tham dục - một trong năm độc - khởi lên, chúng ta hãy niệm danh hiệu. Khi nào sắp nổi giận, chúng ta hãy niệm Phật, khi nào muốn cầu nguyện cho ai chúng ta hãy niệm Phật.

Danh hiệu Phật có tính cách của một thần chú (mantra), một tổng trì (dharani) thỏa mãn cho những nguyện vọng xuất thế gian ("nghe danh hiệu tôi, được Vô sanh pháp nhẫn và các môn tổng trì sâu xa" lời nguyện thứ 34) và những nguyện vọng thế gian ("nghe danh hiệu tôi, sau khi mạng chung, sanh ra vào những gia đình tôn qúy" lời nguyện thứ 43), ("nghe danh hiệu tôi, tất cả các căn không xấu xí, kém khuyết" lời nguyện thứ 41). Sở dĩ như vậy vì trong danh hiệu có đủ cả Pháp thân (Tâm giác ngộ, tâm Phật), Báo thân (Aùnh sáng vô lượng, Thọ mạng vô lượng) và Hóa thân (sắc thân Phật và cõi Tịnh độ) của Phật A Di Đà. Bởi thế khi nào trong lòng chúng ta từ bi hỷ xả không sinh khởi, hãy niệm danh hiệudanh hiệu là sự tập trung thuần khiết nhất của từ bi hỷ xả. Sáu Ba la mật, năm căn, năm lực, bảy Bồ đề phần, tám Thánh đạo phần (kinh A Di Đà), cho đến đắc Vô sanh pháp nhẫn, tức con đường Đại thừa chung cho mọi tông đều có đủ trong danh hiệu Phật. Chúng ta cần nhớ rằng trong danh hiệuChánh báoY báo, nghĩa là có cả bản tánh trí tuệđại bi của Đức A Di Đà, đồng thờiTịnh độ của Ngài.

Niệm Phật là thả mình vào công cuộc chuyển hóa của bổn nguyện, trút những xácchết của khổ đau phiền não không thể nguôi ngoai vào đại dương của bổn nguyện và để cho đại dương đó chuyển hóa cho. Như Phật Thích Ca đã nói "trong đại dương (Niết bàn) không dung chứa xác chết", đại dương ánh sáng và đại bi của Phật A Di Đà cũng không chứa những phiền não khổ đau của chúng sinh mà sẽ chuyển hóa chúng thành những phẩm tính của Tịnh độ. Một bài kệ của Thân Loan (1173-1263), vị Tổ thứ hai Tịnh Độ tông Nhật Bản, đã viết :

Khi nhiều dòng sông phiền não chảy vào
Đại dương của lời nguyện đại bi
Của ánh sáng vô ngại, soi sáng mười phương
Chúng trở thành một vị với nước của trí tuệ.

Và như thế, không chỉ khổ đau phiền não của chúng sinhtoàn bộ hiện sinh của con người được đặt trên nền tảng ban sơtối hậu của sự chuyển hóa : cuộc đời bấp bênh dễ vỡ như bọt biển ("bọt trong biển cả uổng chìm nổi" Tuệ Trung Thượng Sĩ) được an trú vào đại dương bổn nguyện của A Di Đà; tâm thức chúng ta
tiếp thông với ánh sáng vô lượng, cuộc đời hữu hạn nhỏ nhoi của chúng ta tìm ra nền tảng của chính nó là đời sống vô lượng, sức sống của chúng ta cắm rễ vào lòng Bi không cùng.

Lúc ấy, thế giới này không còn là khổ đau sanh tử mà tất cả đều đã được chuyển hóa để trở thành sự biểu hiện của Phật A Di Đà như cõi Tịnh độ (giai thị A Di Đà Phật dục linh tuyên lưu biến hóa sở táckinh A Di Đà). Lúc đó là sự hợp nhất bất khả phân, ánh sáng hòa trong ánh sáng, hương thơm hòa trong hương thơm, như Saichi (1850-1933) nói :

Lòng tôi là lòng Ngài
Lòng Ngài là lòng tôi
Chính lòng Ngài trở thành tôi;
Không phải tôi trở thành A Di Đà
A Di Đà trở thành tôi
Nam mô A Di Đà Phật.

Trong ánh sáng vô lượng có sự chuyển hóa hoàn toàn, tất cả đều trở thành ánh sáng, vẫn Saichi nói :

84.000 phiền não
84.000 ánh sáng
84.000 niềm vui tràn ngập

Ở trên là một vài trích dẫn lời phát biểu từ các thành tựu của hành giả niệm Phật, đó cũng chính là những tấm gương cho chúng ta, những lời ấy cho thấy chính đức tin chân thành sâu sắc rằng tất cả chúng ta đang sống trong bổn nguyện, Aùnh sáng vô lượngthọ mạng vô lượng của Phật A Di Đà. Sống trong đức tin như vậy tạo thành Giới Định Tuệ cho một cuộc đời của một Phật tử Tịnh độ. Chỉ nói một mặt và sơ lược về một vài điều giới của một Phật tử Tịnh độ, đó là không tranh chấp, không oán thù, từ bi hỷ xả, không gieo thêm khổ đau cho mình và cho người khác, "không có ba đường ác, thậm chí không có cả danh từ đường ác" (kinh A Di Đà). Một khi tâm không có xấu ác như vậy, thì nhờ đó mà cảm nghiệm được sự thanh tịnh đẹp đẽ của cõi Tịnh độ; tâm đó đã có tịnh nghiệp của cõi Tịnh độ cho nên nó đã có phần tiếp thông với Tịnh độ. Như thế, cuộc đời đó được thăng hoa, gần với sự an ổn của bổn nguyện, gần với ánh sáng vô lượngđời sống vô lượng hơn.

Trong thời đại hiện nay, tính chất tâm linh nơi con người đã yếu nhạt nhiều, hoàn cảnh bên ngoài dễ dàng cho con người sa vào tội ác. Nhưng cũng chính trong một thời khó khăn cho tâm linh như vậy, bổn nguyện của Phật A Di Đà lại càng có ý nghĩa hơn, khi bổn nguyện đó đã có trước cả sự sinh thành của thế giới chúng sinh và sẽ còn mãi với đức Vô lượng thọ. Có lẽ rằng trong thời yếu kém tâm linh này, con người không có cách gì tiếp cận và vượt lên một đời sống cao thượng hơn, sáng sủa hơn, đầy tin yêu hơn, hòa hợp hơn và với phương tiện nào dễ dàng hơn pháp môn niệm Phật.

Những lời nguyện của Đức A Di Đà nhằm vào tất cả chúng sinh trong mọi mặt của cuộc đời với bao nhiêu giới hạn, tội lỗi, lỡ lầm Ẩ Như ngài Thân Loan đã nói :

"Khi tôi suy nghĩ về lời nguyện từ bi của A Di Đà, được thiết lập qua năm a tăng kỳ kiếp tâm niệm sâu xa, lời nguyện đó là dành cho chính tôi, Thân Loan, cho chính một mình tôi".

Khi đức tin đã phát khởi, chúng ta có sự tương thông với Phật A Di Đà và sự tượng thông đó trở nên liên tục, tương tục và luôn luôn mở rộng cả bề sâu lẫn bề rộng bằng niệm danh hiệu Phật. Sự chuyển hóa liên tục xảy ra từ mối nối kết này, biến đổi con người tội lỗi, bất toàn, tự mâu thuẫn xung đột và phải chết của chúng ta thành một con người của Tịnh độ. Sự chuyển hóa này ngày xưa các tổ Tịnh độ ví như "gạch ngói vụn được biến thành vàng ròng" vì "trong Tịnh độ tất cả trời người sắc tướng đều một màu vàng ròng" (lời nguyện thứ 3). Chúng ta cần nhắc lại một lần nữa, sự chuyển hóa không chỉ xảy ra ở nơi cõi Tịnh độ mà đã và đang xảy ra ngay tại đây và lúc này. Sự chuyển hóa "gạch ngói vụn thành vàng ròng", "sắc tướng con người đồng thành một màu vàng ròng" phải được thiết lập ở đây và lúc này, nghĩa là kinh nghiệm về Tịnh độ và Phật A Di Đà phải được cảm nhận nơi mình ở đây và lúc này.

Để minh họa cho đời sống của đức tin hiện sinh này, chúng ta đọc một vài mẩu chuyện của Shoma (1799-1871) trích từ The Essence of Buđhism của D.T. Suzuki :

Có lần Shoma viếng một ngôi chùa quê. Vừa vào chánh điện, anh thõng chân nằm dài tượng A Di Đà. Một người trách anh thất kính, anh trả lời :

"Tôi vào đây là trở về nhà cha mẹ tôi, còn anh bắt bẻ tôi như vậy chẳng qua anh chỉ là người ngoài gia đình này thôi".

lẽ sống trong lòng đại bi bổn nguyện của Phật A Di Đà là như vậy.

Có lần Shoma cùng các bạn đi trên một chiếc thuyền buồm, gặp lúc gió lớn sóng to như muốn nhận chìm thuyền. Mọi người quên hết việc niệm Phật mà chỉ biết van vái lung tung. Trong khi ấy, Shoma nằm ngủ cho đến lúc người ta đập anh dậy, anh dụi mắt hỏi :

"Tôi có còn trong thế giới Ta bà không?"

Có lần anh làm việc ngoài đồng, mệt bèn về nhà nghỉ. Gió mát khiến anh nhớ đến Phật A Di Đà. Anh liền mang tượng ra đặt bên cạnh nói : "Ngài ngồi đây hóng mát nhé !".

Một hôm giữa đường mắc bệnh, bạn bè mướn người võng anh về nhà, rồi dặn dò :

"Nay anh đã về quê rồi, hãy nghỉ yên và tạ ơn A Di Đà", Shoma đáp :"Cám ơn, nhưng tôi bệnh ở đâu thì chỗ đó là Tịnh độ của tôi, sát ngay bên cạnh tôi".

Có lần nghe người nói về hoạt động truyền giáo của một tôn giáo khác, Shoma nói :

"Không gì tốt hơnphàm phu thành Phật". Khi có người hỏi làm sao giữ tròn được cuộc sống sau khi chết, Shoma đáp : "Việc ấy để A Di Đà lo liệu, đó không phải là chuyện của tôi".

Chúng ta thấy một con người, bằng đức tin và niệm danh hiệu, đã gắn được cuộc đời mình với bổn nguyện của A Di Đà, và như thế, dù thân còn ở đây chưa về đến Tịnh độ nhưng tâm đã có phần dự vào trong Tịnh độ, trong Pháp thân, Báo thânHóa thân của Phật A Di Đà để xóa tan khoảng cách giữa Ta bàTịnh độ, giữa sinh tửNiết bàn.

Có thể tóm lại, sống trong bổn nguyện là giao phó, đưa hết thẩy thân tâm tùy thuận với công việc đại bi bao la vô tận của Phật A Di Đà, một thân tâm quy y vào Phật A Di Đà như vậy thì thanh tịnh để có thể phát khởi đức tin trông cậy vào A Di Đà và công việc của Ngài. Thân tâm hữu hạn và khuyết điểm đó chìm ngập trong thực tại của A Di ĐàTrí tuệĐại bi phổ trong 48 lời nguyện, đây là tiền đề để sinh về Tịnh độ. Nhưng trước khi thân tâm đi về trung tâm điểm đích đến của nó là Tịnh độ, thì ngay ở đây và lúc này, nơi thế giới này, chúng ta đã hưởng được những phần công đức của Tịnh độ.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 478)
Từ khi ra đời và truyền bá rộng rãi đến các nước trên thế giới, trong suốt quá trình hoằng dương chánh pháp, hội nhập và phát triển
(Xem: 458)
Sự phát hiện của những pho tượng và văn bia còn lưu lại cho thấy Tịnh Độ xuất hiện ở nước ta vào đời nhà Lý, nhưng đến đời nhà Trần thì mới thật sự phát triển mạnh.
(Xem: 446)
Tịnh độ, hay Phật độ, Phật quốc được hiểu là một cõi thanh tịnh thuộc về một vị Phật đã tạo ra.
(Xem: 513)
Chúng ta muốn tu tập pháp môn Tịnh độ thành công thì sự thành công ấy, phải đặt trên nền tảng của Tịnh giới.
(Xem: 311)
Pháp môn Tịnh độ được xem là một trong những pháp môn tu tập hội đủ hai yếu tố: tha lựctự lực;
(Xem: 428)
Pháp tu Tịnh độ là một trong nhiều pháp môn tu tập thuộc Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 766)
Đạo Phật có 8 vạn 4 nghìn pháp môn, trong đó Tịnh Độ tông có tầm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân sinh.
(Xem: 1103)
Kinh A Di Đà cùng với kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ là ba kinh căn bản làm tông của tông Tịnh Độ
(Xem: 1412)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961) là một trong những vị tỳ kheo theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng của Thái Lan bậc nhất.
(Xem: 1141)
Thay vì luôn làm nhiều việc cùng một lúc, ta phải tập thói quen chỉ làm mỗi lần một việc. Chánh niệm cần phải được luyện tập.
(Xem: 1074)
Không biết tự bao giờ câu “A Di Đà Phật” trở thành câu cửa miệng cho bất kỳ ai là tín đồ Phật giáo
(Xem: 2271)
“Niệm Phật (S: Buddhānusmrti; P: Buddhānussati): tâm nghĩ nhớ pháp thân Phật hoặc quán tưởng thân tưởng Phật, quán niệm công đức Phật hay miệng xưng danh hiệu Phật”
(Xem: 1477)
Phàm niệm Phật là do tâm khởi. Tâm khởi thiện thì niệm thiện, khởi niệm thiện thì nghiệp báo thiện.
(Xem: 1756)
Khi niệm Phật, người tu hành nên y theo các phương pháp nêu ra sau đây, chọn lấy phương pháp nào thích hợp nhất với căn cơhoàn cảnh mình mà hành trì.
(Xem: 2158)
Hệ thống giáo nghĩa Chân tông được kiến lập qua tác phẩm chủ yếu của Ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng
(Xem: 1865)
Người niệm Phật, ai ai cũng hủy báng tham thiền. Người tham thiền, ai ai cũng hủy báng niệm Phật. Ví như khi đối đầu với cái chết, chúng ta lại muốn đối phương sớm chết theo mình.
(Xem: 2572)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 4694)
Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giả sơ phát tâm tu trì pháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng công hành trì pháp môn niệm Phật.
(Xem: 2603)
Nói và nghe là hai yếu tố quan trọng trong đời sống con người.
(Xem: 6276)
Chúng ta đều cần cầu nguyện đến Phật Vô Lượng Quang A Di Đà [Amitabha] rằng chúng ta sẽ sinh trong cõi Cực Lạc [Dewachen] khi chết.
(Xem: 3221)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 3030)
Không những đời sau, hành giả sẽ được sanh về Thế Giới An Lạc mà ngay trong đời này, hành giả sẽ được an lạc, vô úy vì họ đã ...
(Xem: 2876)
Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh? Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử,
(Xem: 3656)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã...
(Xem: 3163)
Hành giả tùy niệm Như Lai khi tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối, được nghĩa tín thọ, pháp thọ,
(Xem: 8031)
Vọng niệm diệt dứt, đó là chân tâm thường trụ của chư Phật.
(Xem: 2821)
Điểm thù thắng nhất trong Phật pháp làm cho chúng ta khâm phục đến năm vóc sát đấtPhật pháp chỉ dạy một cá nhân tôi chứ chẳng dạy ai khác, đây là điều tôi hiểu rất rõ ràng.
(Xem: 8435)
Trong quá trình nghiên cứu kinh Đại thừa nói chung và pháp môn Tịnh độ nói riêng, với những gì biết được, tôi cũng “suy luận” ra là có cõi Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà.
(Xem: 4378)
Làm sao thoát khỏi vòng nghiệp lực, cải đổi vận mạng? Muốn làm chủ nghiệp lực, dĩ nhiên phải Tu, chân thành hướng về Phật, sẽ được sống trong vầng hào quang tịnh khiết.
(Xem: 8065)
Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngã cuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng.
(Xem: 6634)
Hàng năm, từ trung tuần tháng 12 dương lịch, các tự viện khắp nơi đều hoan hỷ chuẩn bị tổ chức các khóa tu để cúng dường lễ vía Đức Phật A Di Đà, vị Phật đã phát 48 đại nguyện cứu độ chúng sanh
(Xem: 11126)
Trong kinh có một câu chuyện xảy ra làm đau lòng mọi người khi đức Phật còn tại thế. Một người vì quá tham tàn, bạo ngược, bất chấp cả tình cha con...
(Xem: 22750)
Giáo, Lý, Hạnh, Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật, thật là đường tắt để đắc đạo. Xưa kia, tu pháp nào cũng đều đủ cả bốn điều này.
(Xem: 5228)
Danh hiệu tuyệt vời của A Di Đà đã thâu tóm trong Ngài đến những vô lượng vô số công phu tu tập. Chính danh hiệu...
(Xem: 11683)
Pháp môn Tịnh-độ là một trong 84 vạn pháp môn mà Đức Phật Thích-Ca "phương tiện" chỉ bày cho thập phương chúng sanh kể cã cõi ta-bà nầy hành trì để giải thoát "sanh tử-luân hồi"
(Xem: 11313)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay.
(Xem: 12500)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 34499)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 32648)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22062)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 12460)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 11794)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 10311)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10775)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 11752)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11651)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 10867)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10646)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 11334)
Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ yêu cầu chúng ta hai điều mỗi khi trì tụng chú Đại Bi, đó là thành tâm và không mưu cầu những việc bất thiện.
(Xem: 7167)
Chúng ta ở nơi đây cùng nhau nghiên cứu, thảo luận một phương pháp tu học trọng yếu trong Phật pháp chính là ba tư lương của tịnh độ.
(Xem: 6501)
Chúng ta không thể biểu hiện chức năng như một thành viên của xã hội ngoại trừ chúng ta có một khái niệm nào đó về thiện và ác.
(Xem: 7201)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ.
(Xem: 5700)
Kinh tạng còn ghi lại khá nhiều trường hợp Đức Phật đích thân trợ niệm hoặc dạy các đệ tử đi trợ niệm cho người bệnh hoặc người sắp lâm chung.
(Xem: 6395)
Khi suy nghĩ những nhu cầu tâm linh của người sắp chết, nguyên tắc căn bản là làm bất cứ điều gì bạn có thể làm được để giúp đỡ người chết có tâm bình tĩnh và an lạc, để họ có ý nghĩ tâm linh tích cực nhất.
(Xem: 5990)
Qua thực tế sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng dấu ấn của pháp môn Tịnh độhết sức sâu đậm.
(Xem: 9339)
Phàm người niệm Phật, điểm chánh yếu là giải quyết vấn đề sống chết, chẳng phải lơ láo qua ngày!. Nên nghĩ đến cơn vô thường mau chóng, thời khắc chẳng chờ người,
(Xem: 5878)
Bổn nguyện tức là bốn mươi tám lời nguyện. Sau khi Tịnh Tông được thành lập thì chúng ta niệm Phật y theo ‘bổn nguyện’.
(Xem: 5845)
Hành vi đời sống của chính mình chính là Phương tiện khéo léo của sáu phép Ba La Mật. Dùng sáu phép này để tu sửa lại tất cả những hành vi sai lầm đã phạm phải ở ngay trong cuộc sống thường ngày của chúng ta.
(Xem: 5608)
Kinh Vô Lượng Thọviên giáo xứng tánh của Như Lai, là hóa nghi sẵn đủ của chúng sanh.
(Xem: 6152)
Phật dạy rằng tất cả nhân quả thiện ác trên thế gian như bóng theo hình, không sai chạy tơ hào. Song, những kẻ không tin tưởng luật nhân quả thì cho đó là lời rỗng tuếch.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant