Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sống Trong Bổn Nguyện Của Phật A Di Đà

31 Tháng Ba 201517:30(Xem: 7399)
Sống Trong Bổn Nguyện Của Phật A Di Đà
SỐNG TRONG BỔN NGUYỆN CỦA PHẬT A DI ĐÀ

Nguyễn Thế Đăng


Sống Trong Bổn Nguyện Của Phật A Di ĐàTất cả chúng ta đang sống trong Ánh sáng Vô lượng (Vô lượng Quang) và Đời sống Vô lượng (Vô lượng Thọ), trong bổn nguyện của Phật A Di Đà, điều đó được nói trong 48 lời nguyện của Tỳ kheo Pháp Tạng (Dharmakara), tiền thân của Ngài.

Những ước vọng của kiếp nhân sinh và những khổ đau - mặt trái của ước vọng không thành của con người - đều được gói trọn trong bổn nguyện của A Di Đà. Bổn nguyện đó là Ánh sáng Vô ngại (Vô Ngại Quang Như Lai) có thể soi thấu đến những chỗ tối tăm nhất trong lòng người và xuyên qua những chất cứng nhất trong thế gian, cái bản ngã cứng đặc kiên cường và đen tối, và như thế, năng lực chuyển hóa của bổn nguyện là vô hạn. Bổn nguyện là tấm lưới của ánh sáng và đại bi trùm khắp chúng sinh ba cõi, chỉ cần một niềm tin chân thành là tấm lưới ấy hoạt động để đưa chúng ta đến với ánh sáng tỏa chiếu tình thương vô tận.

48 lời nguyện ấy đã thành tựu từ rất lâu xa, khi Bồ tát Pháp Tạng thành Phật đến nay đã được mười kiếp (một kiếp gồm 4.320.000.000 năm, theo cách tính của Aán Độ thời cổ, y cứ lời của Đức Phật Thích Ca dạy trong kinh A Di Đà (Xá Lợi Phất! A Di Đà Phật thành Phật dĩ lai ư kim thập kiếp). Vì lý do đó mà những lời nguyện trên được gọi là bổn nguyện. Chúng ta đang sống trong bổn nguyện, trong ánh sáng vô lượngđời sống vô lượng mà theo ý niệm nhị nguyên của con người, chúng ta có thể hiểu rằng, ánh sáng vô lượngtrí tuệđời sống vô lượng là tâm đại bi của A Di Đà.

Cái làm cho chúng sinh tiếp xúc được với bổn nguyện của A Di Đàđức tin. Trong 19 lời nguyện nhắm đến tất cả chúng sinh trong vũ trụ ấy, đều mang nội dung của đức tin. Đức tin ấy có thể hình dung qua những yếu tố sau đây :

  • Một ý thức sâu sắc về tính hữu hạn, thất thường, bất định, mâu thuẫn và phải chết của con người\. Nếu chỉ đích danh hơn, những tính chất hữu hạn, mâu thuẫn nội tại ấy là đặc tính của cái ngã và những hoạt động phiền não của nó. Và trong tình trạng hiện thời, toàn bộ đời sống con người dựa vào cái ngã và những hoạt động tạo nghiệp của nó, hậu quả tất yếu là những khuyết điểm, lầm lỗi và khổ đau mà chúng ta gọi là sanh tử. Nhưng để thoát khỏi cái ngã đó, với phần đông con người là không thể, vì làm bất cứ điều gì, dù tu hành để giải thoát hay làm tốt cho người khác thì vẫn nằm trong sự giật dây của cái tự ngã, chỉ làm cho cái ngã, phụng sự cái tự ngã. Với con người, không phải bao giờ cũng có thể có vị tha thực sự, lợi mình lợi người thực sự, vì thông thường có cái ta phản trắc luôn ở trung tâm của mọi hành động. Không giải quyết được khổ đau của mình, đồng thời chúng ta cũng gieo rắc khổ đau cho người khác. Nói theo hình ảnh của kinh Pháp Hoa, chúng ta là những đứa con khốn cùng, dù có may mắn nghe được cha mình giàu có đến trùm khắp vô vàn thế giới đang ở nơi xa kia chờ mình thì cũng không đủ sức trở về, dù có người dẫn dắt. Đôi chân con người đã mỏi mệt vì khổ đau của sinh tử, trí óc đã quá nặng nề vì những màn ảo hóa Ẩ và chỉ khi thấy rõ sự hữu hạn, nhỏ bé và bất lự c của mình, thấy sự mâu thuẫn nằm trong chính nền tảng của bản thân, con người khổ đau đó mới mở mình ra trước lời kêu gọi của đại nguyện của Phật A Di Đà.
    Chúng ta không biết làm gì hơn là phó thác, hiến mình và tin cậy. Khi tự lực trong mức độ chúng sinh chỉ là thất thường, mâu thuẫn nội tại, chính lúc đó, bắt đầu sự lắng nghe sâu xa tiếng kêu gọi của bổn nguyện, sự chấp nhận phó thác cho công việc đại bi của Phật A Di Đà. Một chuyển hóa bắt đầu xảy ra, con người từ bỏ những bất toàn, những xung đột mâu thuẫn nội tại của mình, để đi vào nguyện lực của Đức A Di Đà. Do đó con người thấy ra tha lực.
  • Không chỉ để đối phó với khổ đau, đức tin còn là một mong mỏi bất tuyệt về một cõi không có ba đường ác (lời nguyện thứ nhất), thậm chí không có cả một danh từ để chỉ một sự ác nào (lời nguyện thứ 16). Tích cực hơn, đức tin còn là một tình cảm nồng nhiệt đối với tất cả những gì đẹp đẽ, thanh tịnh đối với cõi nước, con người lành thánhẨ của Phật A Di Đà. Chính sự kính ngưỡng đối với cõi Tịnh độ và Phật A Di Đà sẽ chuyển hóa những đam mê vào cõi dục của chúng ta, nguyên nhân của những phiền não khổ đau.
  • Cuối cùng, đức tin đó khiến chúng ta mở tâm thức, mở tấm lòng để đón nhận ánh sáng của lòng bi A Di Đà. Trong các kinh Nikàya, có thuật lại rằng khi Đức Thích Ca giác ngộ, Ngài nhìn lại thế gian, quan sát chúng sinh như những hoa sen, có cái còn nằm trong bùn, có cái lên trong nước, có cái đã ra khỏi nước và có cái bắt đầu nở hoa, thấy thế, Đức Phật đã quyết định chuyển bánh xe pháp để đem lại lợi lạc cho chúng sinh. Với đức tin vào Phật A Di Đànăng lực đại bi trùm khắp của Ngài, đoá hoa sen tức Phật tánh của mỗi người sẽ vươn lên và nở hoa trong ánh sánh vô lượngđời sống vô lượng.

Đức tin là cái nối kết con người với lời kêu gọi ngập đầy thương yêu và ân điển Ố tức là 48 lời nguyện của Đức A Di Đà Ố với ánh sáng vô lượngđời sống vô lượng Ố tức là bản tính của Đức A Di Đà. Nhưng sự kêu gọi và sự đáp trả còn thể hiện cụ thể, đó là niệm danh hiệu "Nam mô A Di Đà Phật", "Nam mô" là sự trở về trong tâm linh của đưá con cơ nhỡ, lạc loài, vô phương tự thoát và "A Di Đà Phật" là quê nhà của nó, sự sống và là ánh sáng của nó.

Niệm Phậtthể hiện đức tin ấy. Trong 19 lời nguyện nhắm đến các chúng sinh ở ngoài cõi Tịnh độ, có đến 14 lời nguyện nói đến "niệm danh hiệu" và "nghe danh hiệu". Như thế, danh hiệu A Di Đà chính là Phật A Di Đà. Niệm danh hiệuphương pháp được nói đến nhiều nhất trong những phương pháp để tiếp thông với Đức Phật. Niệm danh hiệu chính là đi về Tịnh độđi vào bản tính của Phật, đồng thời làm hiện thân Tịnh độbản thân Phật A Di Đà giữa thế gian.

Như trên đã nói, niệm danh hiệu được nhắc đến nhiều nhất trong các đường lối để tiếp cận với Phật A Di ĐàTịnh độ. Niệm Phật là để sinh về Tịnh độ, nơi không có những tranh chấp mâu thuẫn giữa ta Ố người, ta Ố thế giới, và ta với chính ta, những mâu thuẫn muôn đời không thể nào giải quyếtđời sống vận hành theo chiều hướng tư duy hữu ngã này.

Niệm Phật A Di Đà là niệm ánh sáng vô lượng, do đó thải trừ bóng tối vô minh nơi mình. Niệm Phật A Di Đà là niệm đời sống vô lượng, do đó thải trừ sinh tử nơi mình. Như vậy, niệm danh hiệu đúng nghĩa chính là đang thực hiện sự tịnh hoá. Nó không chỉ là loại bỏ sự sợ hãi trước bóng tối và cái chết, mà còn đưa con người đến với ánh sáng vô lượngđời sống vô lượng, nghĩa là khai mở Phật tánh trong mỗi người, như Tỳ kheo Pháp Tạng đã thành tựuứng dụng để tạo thành Tịnh độ trước đây mười a tăng kỳ kiếp.

Bắt đầu niệm Phật là bắt đầu sự chuyển hoá. Mỗi câu niệm Phậtmột lần chuyển hóa. Sự chuyển hoá này xảy ra tại đây và bây giờ, thải trừ năm độc tham, sân, si, kiêu mạn và đố kî trong thân tâm mỗi người\. Như thế, con đường đi về Tịnh độ bắt đầu ngay lúc này và tại đây, bằng danh hiệu Phật. Lấy một hình ảnh thí dụ của Đại thừa, Phật A Di Đà ví như một mặt trăng giữa trời, mà mỗi câu niệm Phật như một chậu nước, mỗi chậu nước có một mặt trăng trong đó. Niệm Phật đến mức mặt trăng in hẳn vào dòng hiện sinh của hành giả, không còn tách lìa, dù ở đâu và lúc nào. Khi đã thật sự có mặt trăng Phật thường trực trong lòng, sự tái sinh về Tịnh độ khi chết ắt là một tiến trình tất yếu.

Theo Kim Cương thừa, Phật A Di Đà ở về phương Tây trong Ngũ Trí Như Lai, là chủ của Liên Hoa bộ. Thành tố của bộ này là lửa và màu là màu đỏ. Phật A Di Đà ngồi trên một tòa sen do một con công đội. Con công ăn thức ăn độc và chuyển hóa thành màu lông rực rỡ của mình, càng độc lông càng đẹp. Bộ Liên Hoa chuyển hóa tham dục của cõi này thành trí tuệ, biến ái dục của cõi dục này thành từ bi. Bởi thế, khi nào tham dục - một trong năm độc - khởi lên, chúng ta hãy niệm danh hiệu. Khi nào sắp nổi giận, chúng ta hãy niệm Phật, khi nào muốn cầu nguyện cho ai chúng ta hãy niệm Phật.

Danh hiệu Phật có tính cách của một thần chú (mantra), một tổng trì (dharani) thỏa mãn cho những nguyện vọng xuất thế gian ("nghe danh hiệu tôi, được Vô sanh pháp nhẫn và các môn tổng trì sâu xa" lời nguyện thứ 34) và những nguyện vọng thế gian ("nghe danh hiệu tôi, sau khi mạng chung, sanh ra vào những gia đình tôn qúy" lời nguyện thứ 43), ("nghe danh hiệu tôi, tất cả các căn không xấu xí, kém khuyết" lời nguyện thứ 41). Sở dĩ như vậy vì trong danh hiệu có đủ cả Pháp thân (Tâm giác ngộ, tâm Phật), Báo thân (Aùnh sáng vô lượng, Thọ mạng vô lượng) và Hóa thân (sắc thân Phật và cõi Tịnh độ) của Phật A Di Đà. Bởi thế khi nào trong lòng chúng ta từ bi hỷ xả không sinh khởi, hãy niệm danh hiệudanh hiệu là sự tập trung thuần khiết nhất của từ bi hỷ xả. Sáu Ba la mật, năm căn, năm lực, bảy Bồ đề phần, tám Thánh đạo phần (kinh A Di Đà), cho đến đắc Vô sanh pháp nhẫn, tức con đường Đại thừa chung cho mọi tông đều có đủ trong danh hiệu Phật. Chúng ta cần nhớ rằng trong danh hiệuChánh báoY báo, nghĩa là có cả bản tánh trí tuệđại bi của Đức A Di Đà, đồng thờiTịnh độ của Ngài.

Niệm Phật là thả mình vào công cuộc chuyển hóa của bổn nguyện, trút những xácchết của khổ đau phiền não không thể nguôi ngoai vào đại dương của bổn nguyện và để cho đại dương đó chuyển hóa cho. Như Phật Thích Ca đã nói "trong đại dương (Niết bàn) không dung chứa xác chết", đại dương ánh sáng và đại bi của Phật A Di Đà cũng không chứa những phiền não khổ đau của chúng sinh mà sẽ chuyển hóa chúng thành những phẩm tính của Tịnh độ. Một bài kệ của Thân Loan (1173-1263), vị Tổ thứ hai Tịnh Độ tông Nhật Bản, đã viết :

Khi nhiều dòng sông phiền não chảy vào
Đại dương của lời nguyện đại bi
Của ánh sáng vô ngại, soi sáng mười phương
Chúng trở thành một vị với nước của trí tuệ.

Và như thế, không chỉ khổ đau phiền não của chúng sinhtoàn bộ hiện sinh của con người được đặt trên nền tảng ban sơtối hậu của sự chuyển hóa : cuộc đời bấp bênh dễ vỡ như bọt biển ("bọt trong biển cả uổng chìm nổi" Tuệ Trung Thượng Sĩ) được an trú vào đại dương bổn nguyện của A Di Đà; tâm thức chúng ta
tiếp thông với ánh sáng vô lượng, cuộc đời hữu hạn nhỏ nhoi của chúng ta tìm ra nền tảng của chính nó là đời sống vô lượng, sức sống của chúng ta cắm rễ vào lòng Bi không cùng.

Lúc ấy, thế giới này không còn là khổ đau sanh tử mà tất cả đều đã được chuyển hóa để trở thành sự biểu hiện của Phật A Di Đà như cõi Tịnh độ (giai thị A Di Đà Phật dục linh tuyên lưu biến hóa sở táckinh A Di Đà). Lúc đó là sự hợp nhất bất khả phân, ánh sáng hòa trong ánh sáng, hương thơm hòa trong hương thơm, như Saichi (1850-1933) nói :

Lòng tôi là lòng Ngài
Lòng Ngài là lòng tôi
Chính lòng Ngài trở thành tôi;
Không phải tôi trở thành A Di Đà
A Di Đà trở thành tôi
Nam mô A Di Đà Phật.

Trong ánh sáng vô lượng có sự chuyển hóa hoàn toàn, tất cả đều trở thành ánh sáng, vẫn Saichi nói :

84.000 phiền não
84.000 ánh sáng
84.000 niềm vui tràn ngập

Ở trên là một vài trích dẫn lời phát biểu từ các thành tựu của hành giả niệm Phật, đó cũng chính là những tấm gương cho chúng ta, những lời ấy cho thấy chính đức tin chân thành sâu sắc rằng tất cả chúng ta đang sống trong bổn nguyện, Aùnh sáng vô lượngthọ mạng vô lượng của Phật A Di Đà. Sống trong đức tin như vậy tạo thành Giới Định Tuệ cho một cuộc đời của một Phật tử Tịnh độ. Chỉ nói một mặt và sơ lược về một vài điều giới của một Phật tử Tịnh độ, đó là không tranh chấp, không oán thù, từ bi hỷ xả, không gieo thêm khổ đau cho mình và cho người khác, "không có ba đường ác, thậm chí không có cả danh từ đường ác" (kinh A Di Đà). Một khi tâm không có xấu ác như vậy, thì nhờ đó mà cảm nghiệm được sự thanh tịnh đẹp đẽ của cõi Tịnh độ; tâm đó đã có tịnh nghiệp của cõi Tịnh độ cho nên nó đã có phần tiếp thông với Tịnh độ. Như thế, cuộc đời đó được thăng hoa, gần với sự an ổn của bổn nguyện, gần với ánh sáng vô lượngđời sống vô lượng hơn.

Trong thời đại hiện nay, tính chất tâm linh nơi con người đã yếu nhạt nhiều, hoàn cảnh bên ngoài dễ dàng cho con người sa vào tội ác. Nhưng cũng chính trong một thời khó khăn cho tâm linh như vậy, bổn nguyện của Phật A Di Đà lại càng có ý nghĩa hơn, khi bổn nguyện đó đã có trước cả sự sinh thành của thế giới chúng sinh và sẽ còn mãi với đức Vô lượng thọ. Có lẽ rằng trong thời yếu kém tâm linh này, con người không có cách gì tiếp cận và vượt lên một đời sống cao thượng hơn, sáng sủa hơn, đầy tin yêu hơn, hòa hợp hơn và với phương tiện nào dễ dàng hơn pháp môn niệm Phật.

Những lời nguyện của Đức A Di Đà nhằm vào tất cả chúng sinh trong mọi mặt của cuộc đời với bao nhiêu giới hạn, tội lỗi, lỡ lầm Ẩ Như ngài Thân Loan đã nói :

"Khi tôi suy nghĩ về lời nguyện từ bi của A Di Đà, được thiết lập qua năm a tăng kỳ kiếp tâm niệm sâu xa, lời nguyện đó là dành cho chính tôi, Thân Loan, cho chính một mình tôi".

Khi đức tin đã phát khởi, chúng ta có sự tương thông với Phật A Di Đà và sự tượng thông đó trở nên liên tục, tương tục và luôn luôn mở rộng cả bề sâu lẫn bề rộng bằng niệm danh hiệu Phật. Sự chuyển hóa liên tục xảy ra từ mối nối kết này, biến đổi con người tội lỗi, bất toàn, tự mâu thuẫn xung đột và phải chết của chúng ta thành một con người của Tịnh độ. Sự chuyển hóa này ngày xưa các tổ Tịnh độ ví như "gạch ngói vụn được biến thành vàng ròng" vì "trong Tịnh độ tất cả trời người sắc tướng đều một màu vàng ròng" (lời nguyện thứ 3). Chúng ta cần nhắc lại một lần nữa, sự chuyển hóa không chỉ xảy ra ở nơi cõi Tịnh độ mà đã và đang xảy ra ngay tại đây và lúc này. Sự chuyển hóa "gạch ngói vụn thành vàng ròng", "sắc tướng con người đồng thành một màu vàng ròng" phải được thiết lập ở đây và lúc này, nghĩa là kinh nghiệm về Tịnh độ và Phật A Di Đà phải được cảm nhận nơi mình ở đây và lúc này.

Để minh họa cho đời sống của đức tin hiện sinh này, chúng ta đọc một vài mẩu chuyện của Shoma (1799-1871) trích từ The Essence of Buđhism của D.T. Suzuki :

Có lần Shoma viếng một ngôi chùa quê. Vừa vào chánh điện, anh thõng chân nằm dài tượng A Di Đà. Một người trách anh thất kính, anh trả lời :

"Tôi vào đây là trở về nhà cha mẹ tôi, còn anh bắt bẻ tôi như vậy chẳng qua anh chỉ là người ngoài gia đình này thôi".

lẽ sống trong lòng đại bi bổn nguyện của Phật A Di Đà là như vậy.

Có lần Shoma cùng các bạn đi trên một chiếc thuyền buồm, gặp lúc gió lớn sóng to như muốn nhận chìm thuyền. Mọi người quên hết việc niệm Phật mà chỉ biết van vái lung tung. Trong khi ấy, Shoma nằm ngủ cho đến lúc người ta đập anh dậy, anh dụi mắt hỏi :

"Tôi có còn trong thế giới Ta bà không?"

Có lần anh làm việc ngoài đồng, mệt bèn về nhà nghỉ. Gió mát khiến anh nhớ đến Phật A Di Đà. Anh liền mang tượng ra đặt bên cạnh nói : "Ngài ngồi đây hóng mát nhé !".

Một hôm giữa đường mắc bệnh, bạn bè mướn người võng anh về nhà, rồi dặn dò :

"Nay anh đã về quê rồi, hãy nghỉ yên và tạ ơn A Di Đà", Shoma đáp :"Cám ơn, nhưng tôi bệnh ở đâu thì chỗ đó là Tịnh độ của tôi, sát ngay bên cạnh tôi".

Có lần nghe người nói về hoạt động truyền giáo của một tôn giáo khác, Shoma nói :

"Không gì tốt hơnphàm phu thành Phật". Khi có người hỏi làm sao giữ tròn được cuộc sống sau khi chết, Shoma đáp : "Việc ấy để A Di Đà lo liệu, đó không phải là chuyện của tôi".

Chúng ta thấy một con người, bằng đức tin và niệm danh hiệu, đã gắn được cuộc đời mình với bổn nguyện của A Di Đà, và như thế, dù thân còn ở đây chưa về đến Tịnh độ nhưng tâm đã có phần dự vào trong Tịnh độ, trong Pháp thân, Báo thânHóa thân của Phật A Di Đà để xóa tan khoảng cách giữa Ta bàTịnh độ, giữa sinh tửNiết bàn.

Có thể tóm lại, sống trong bổn nguyện là giao phó, đưa hết thẩy thân tâm tùy thuận với công việc đại bi bao la vô tận của Phật A Di Đà, một thân tâm quy y vào Phật A Di Đà như vậy thì thanh tịnh để có thể phát khởi đức tin trông cậy vào A Di Đà và công việc của Ngài. Thân tâm hữu hạn và khuyết điểm đó chìm ngập trong thực tại của A Di ĐàTrí tuệĐại bi phổ trong 48 lời nguyện, đây là tiền đề để sinh về Tịnh độ. Nhưng trước khi thân tâm đi về trung tâm điểm đích đến của nó là Tịnh độ, thì ngay ở đây và lúc này, nơi thế giới này, chúng ta đã hưởng được những phần công đức của Tịnh độ.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6163)
Phật dạy rằng tất cả nhân quả thiện ác trên thế gian như bóng theo hình, không sai chạy tơ hào. Song, những kẻ không tin tưởng luật nhân quả thì cho đó là lời rỗng tuếch.
(Xem: 7240)
Minh Tâm là một yếu pháp trong hết thảy các pháp và Tịnh Tâm là một yếu hạnh trong hết thảy các hạnh. Nhưng cái yếu pháp Minh Tâm không chi bằng niệm Phật.
(Xem: 6768)
Khi tâm mình nhẹ nhàng, thảnh thơihạnh phúc thì ba nẻo đường đen tốiđịa ngục, ngạ quỷsúc sanh không thể xuất hiện.
(Xem: 6179)
Đã mấy chục năm trôi qua, sinh ra làm người giữa cuộc đời này, cho đến hôm nay, hương linh đã chính thức kết thúc cuộc đời con người,
(Xem: 5659)
Nếu bạn có bạn bè hay người thân đang lâm trọng bệnh hoặc sắp qua đời, tôi biết là không có ai bảo bạn hãy cứ thản nhiên với họ.
(Xem: 4936)
Mục đích thứ nhất của chúng ta khi tu học Phật Pháp đương nhiên là để liễu thoát sanh tử luân hồi, ra khỏi tam giới.
(Xem: 5344)
Hành giả tu học pháp môn Tịnh Độ, tất yếu đầy đủ tư lương Tịnh Độ. Những gì gọi là tư lương?
(Xem: 6651)
Bất cứ một ai khi trì tụng thần chú Đại Bi với tất cả tâm thành, chắc chắn sẽ đạt được tất cả những điều mong cầu, ước nguyện bởi vì oai lực của Thần chú là rộng khắp, vô biên...
(Xem: 5965)
Phật Pháp đến nơi nào thời cũng làm lợi ích cho chúng sanh, làm cho chúng sanh được vui vẻ và được an vui...
(Xem: 12001)
Nguyện con sắp đến lúc lâm chung, Trừ hết tất cả các chướng ngại, Tận mặt thấy Phật A Di Đà, Liền được sanh về cõi Cực lạc.
(Xem: 5746)
Tâm thức chánh niệm hay tán loạn của con người khi lâm chungyếu tố quyết định cho sự vãng sanh Tịnh độ hay đọa lạc về các cảnh giới khổ đau.
(Xem: 7050)
Người Nhật khi nghe đến Shinran Shonin (Thân Loan Thánh Nhân) họ liền hiểu ngay gần như là Giáo Tổ của Tịnh Độ Tông Nhật Bản,
(Xem: 5502)
Trong xã hội ngày nay, với nhiều biến loạn và nhiễu nhương, những người phát tâm học Phật chân chính cần phải có một nhận thức sáng suốt.
(Xem: 5885)
Do chúng sinh có nhiều bệnh, nên đức Phật mới lập ra nhiều pháp môn, nhưng tất cả giáo lý đều lấy giác ngộ làm đích đến.
(Xem: 4912)
Tu học pháp môn niệm Phật là có thể mang nghiệp vãng sanh, nhưng chúng ta cũng tận lực, hy vọng có thể mang đi ít một chút.
(Xem: 4455)
Chúng ta học được từ nơi Phật Bồ Tát là ở ngay trong cuộc sống thường ngày, nhất định phải dùng tâm chân thành, chân thì không giả, thành thì không hư vọng...
(Xem: 8242)
Thiền (hay Thiền–na) là âm của tiếng Phạn "Dhyana", là pháp môn "trực chỉ Chơn tâm, kiến tánh thành Phật".
(Xem: 6532)
Một câu A Di Đà Phật làm cho chúng ta tỉnh lại. Sau khi tỉnh rồi mới biết được chính mình vốn dĩ là A Di Đà Phật, chính mình vốn dĩ là Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 5820)
Phật giáo không phải là tôn giáo, mà là giáo dục. Giáo dục Phật giáo cứu cánh viên mãn, giúp chúng ta phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui.
(Xem: 5478)
Ở Trung Hoa, kinh Quán Vô Lượng Thọ đóng một vai trò quan yếu trong giai đoạn đầu tiên của sự truyền bá Tịnh độ tông hơn bất kỳ kinh văn nào khác của tông nầy.
(Xem: 6414)
Niệm Phật là một trong những pháp môn tu hành rất căn bản được Đức Thế Tôn chỉ dạy rất rõ ràng, hiện còn lưu lại trong các bản kinh cổ nhất,
(Xem: 6743)
Tịnh Độphương cách thích hợp nhất để đạt thành tựu trong một kiếp, và là cách tốt nhất để cứu độ chúng sinh.
(Xem: 7545)
Gặp được Phật pháp rất khó! Trên đời này không có pháp nào thoát ly sanh tử, chỉ có giáo pháp của Phật mới ra khỏi sinh tử luân hồi.
(Xem: 4878)
Tâm thường đế trụ, độ thế chi đạo, ư nhất thiết vạn vật, tuỳ ý tự tại, vi thứ giá loại, tác bất thỉnh chi hửu.
(Xem: 4626)
Học Phật trước tiên phải làm người tốt, xử lý tốt mối quan hệ giữa người với người rồi, tiến thêm một bước, chúng ta phải xử lý tốt mối quan hệ với môi trường tự nhiên.
(Xem: 5264)
Trong bộ kinh này, đức Phật dạy chúng ta phương pháp để cái tâm được thanh tịnh.
(Xem: 12631)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9704)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10461)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10325)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9905)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 12020)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10145)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10786)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9901)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8771)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9499)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14520)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8781)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 9089)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 9338)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8802)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10517)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9192)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8367)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 9416)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8987)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9591)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9018)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 8352)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8951)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8975)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8743)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9370)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 9036)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8774)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 4088)
Ngày nay, nhiều người niệm Phật A Di Đà để cầu vãng sinh Tây phương Cực Lạc. Điều này phù hợp với đại nguyện của đức Phật A Di Đà cứu độ chúng sinh về cõi Tịnh độ của Ngài để tiếp tục tu hành tới ngày thành Phật.
(Xem: 9049)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 9879)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 8643)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant