Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tìm Hiểu Về Trào Lưu Tịnh Độ Tại Việt Nam

19 Tháng Năm 201509:00(Xem: 5988)
Tìm Hiểu Về Trào Lưu Tịnh Độ Tại Việt Nam
TÌM HIỂU VỀ
TRÀO LƯU TỊNH ĐỘ TẠI VIỆT NAM

THÍCH TÂM HẢI


Tìm Hiểu Về Trào Lưu Tịnh Độ Tại Việt NamQua thực tế sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng dấu ấn của pháp môn Tịnh độhết sức sâu đậm. Đây là một trong những vấn đề đáng quan tâm và cần sự nghiên cứu một cách kỹ lưỡng để xác định truyền thống tu học của người Phật tử Việt Nam, nhằm xây dựng các nguyên tắc tổ chức trong các tự viện nói riêng và đời sống tín ngưỡng, tu học của người Phật tử nói chung một cách hiệu quả, phù hợp với tâm lý, bối cảnh văn hóatruyền thống của dân tộc. Vậy tư tưởng Tịnh độ du nhập Việt Nam bao giờ, phát triển ra sao và có đặc điểm gì, trong bài viết này, chúng tôi sẽ bước đầu tìm hiểu về những vấn đề trên qua các tư liệu hiện có.

1.Sự du nhập và phát triển của tín ngưỡng Tịnh độ tại Việt Nam

Danh hiệu của Đức Phật A Di Đà được nhắc đến sớm nhất trong lịch sử Phật giáo VN là ở Cựu tạp thí dụ kinh, truyện 60. Pháp môn niệm Phật cũng đã được đề cập trong Lục độ tập kinh do Khương Tăng Hội (?-280) dịch sang chữ Hán. Đây là những bộ kinh xưa nhất lưu hành tại Việt Nam hiện biết được. Như vậy, ngay từ rất sớm, vào trước thế kỷ thứ III, trong khuynh hướng tư tưởng Phật giáo Đại thừa được giới thiệu tại nước ta, người Phật tử Việt Nam cũng đã bước đầu được tiếp xúc với tín ngưỡng Tịnh độ (A Di Đà). Tư tưởng này đã đi vào đời sống tu tập của người Phật tửtrở thành một trong những trào lưu lớn mạnh ở thế kỷ thứ V với sự có mặt của các bản kinh quan trọng làm nền tảng cho nó là Vô lượng thọ (Quán thọ), (1) do sư Đàm Hoằng (?-455), một vị Tăng người Trung Quốc chuyên hành trì pháp môn Tịnh độ với ước nguyện vãng sinh Cực Lạc, đến việt Nam tu học tại nước ta truyền bá.

Theo Cao tăng truyện của Huệ Hạo, sư Đàm Hoằng (Thích Đàm Hoằng) người Hoang Châu, Trung Quốc, xuất gia từ nhỏ, là người giới hạnh tinh nghiêm, sâu sắc về Luật bộ. Khoảng năm 423, sư đến nước ta, ở tại chùa Tiên Sơn, chuyên hành trì kinh Vô lượng thọ và Quán Vô lượng thọ. Năm 455 sư tự thiêu nhưng không thành vì giữa chừng học trò biết được và dập tắt lửa\. Sau đó, nhân cả thôn làng bận rộn vì gần có hội, cả chùa đều đi Phật sự, sư lén vào hang núi tự thiêu lần nữa\. Khi mọi người biết được đến nơi thì sư đã tịch. Tương truyền, hôm đó, dân làng nhìn thấy sư thân có sắc vàng, cỡi một con nai vàng, không nói năng gì mà đi về hướng Tây rất nhanh. Phật tử trong Tăng ngoài tục biết đó là điều thần dị nên thu nhặt tro xương, dựng tháp để tôn thờ.

Nguyên nhân sự tự thiêu của sư Đàm Hoằng là do đâu? Như chúng ta biết, vào thế kỷ thứ V, tại nước ta đang diễn ra một cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt. Nền tư tưởng Phật giáo quyền năng được thiết định mấy thế kỷ trước tỏ ra không còn sức thuyết phục trước bước phát triển của dân tộc, đặc biệt ở giai đoạn đấu tranh vận động cho sự ra đời của nhà nước độc lập Vạn Xuân. Những tranh luận này đã để lại cho chúng ta ngày nay tư liệu 6 lá thư giữa Lý Miễu và hai vị thầy của ông là các ngài Pháp Minh (k.370-460) và Đạo Cao (k.365-445), tranh luận xung quanh vấn đề tại sao nói Phật thần thông biến hóa nhưng người Phật tử không thấy chân hình của Ngài ở đời (nạn Phật bất kiến hình sự). Sự kiện tự thiêu của sư Đàm Hoằng xảy ra vào thời điểm cao trào của cuộc đấu tranh này và chắc chắn đó không phải là một trường hợp ngẫu nhiên. Thêm nữa, sư Đàm Hoằng tự thiêu là một sự kiện lớn thời bấy giờ. Bởi lẽ tiếng tăm của nó đã vang dội vượt ra ngoài nước ta, đến cả Trung Quốc và mấy trăm năm sau, Huệ Hạo đã ghi vào tác phẩm của mình là Cao tăng truyện. Phải chăng sự tự thiêu này, cùng với những tương truyền về việc dân làng thấy điều thần dị là một câu trả lời trong nỗ lực củng cố niềm tin đối với nền tư tưởng Phật giáo quyền năng, mà khuynh hướng Tịnh độĐàm Hoằng chuyên tâm thực hành là một trong những đại biểu.

Như vậy, có thể nói rằng, ở thế kỷ thứ V, tư tưởng Tịnh độ đã phát triển và trở thành một trào lưu tại nước ta\. Đó cũng là giai đoạn quan trọng với sự lưu hành rộng rãi các bộ kinh căn bản của tư tưởng Tịnh độchúng ta đã được biết qua tiểu sử của sư Đàm Hoằng, chùa Tiên Sơn. Tuy nhiên, giai đoạn tiếp theo, tức từ sau sư Đàm Hoằng đến nửa đầu thế kỷ thứ IX, chúng ta hiện không có tư liệu nào để lại đề cập đến Tịnh độ, mà mãi đến năm 826, nó mới được nhắc đến trong bài kệ của sư Vô Ngôn Thông (759?-826) nói cho đệ tử là sư Cảm Thành (?-860). Trong bài kệ có câu : "Tây Thiên là đất này, Đất này là Tây Thiên Ẩ" (Tây Thiên thử độ, Thử độ Tây Thiên Ẩ). Chữ Tây Thiên ở đây có thể hiểu theo hai nghĩa, chỉ cho thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà, đồng thời cũng có thể hiểu đó là nước Aán Độ, quê hương của Phật giáo.

Từ giữa thế kỷ thứ XI trở đi, khuynh hướng Tịnh độ được phổ biến rộng rãi, với sự hình thành của nhiều ngôi Tam bảo, đạo tràngĐặc biệt là vào thờivua Lý Thánh Tông (1023-1072), nhà vua tuy thuộc thế hệ thứ 1 dòng thiền Thảo Đường, nhưng đã cho tạc một pho tượng Phật A Di Đà độc đáo có một không hai trong lịch sử nghệ thuật điêu khắc của dân tộc hiện nay vẫn còn (2) và cho dựng một ngôi tháp để thờ tại chùa Vạn Phúc. Ngoài ra, còn có tượng Phật A Di Đà do sư Trì Bát (1049-1117), người thuộc thế hệ thứ 12 của dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, chủ trương tạo dựng năm 1099 (3), tượng A Di Đà trong hội đèn Quảng Chiếu trước Đoan Môn, được tạo lập để cầu nguyện cho hoàng hậu Linh Nhân siêu sinh Tịnh độ (4) v.vẨ Cùng với tín ngưỡng A Di Đà, tín ngưỡng Quán Thế Âm, vị Bồ tát thân cận của Phật A Di Đà, ở thời này cũng trở nên phổ biến. Từ giai đoạn này trở về sau, trên phương diện tín ngưỡng, trào lưu Tịnh độ đã thực sự có một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của nhân dân ta.

Thế kỷ XII, qua một các tiểu truyện về các thiền sư được Thiền uyển tập anh ghi lại, chúng ta biết được có thiền sư mặc dù được coi là thuộc hệ truyền thừa của các thiền phái nhưng vẫn hành trì theo pháp môn này, chẳng hạn Thiền sư Tịnh Lực (1111-1175), thuộc thế hệ thứ 10 dòng thiền Vô Ngôn Thông, 12 thời thực hành sám hốithâm nhập được pháp môn niệm Phật tam muội (5); Thiền sư Trì Bát "nhân tưởng niệm Phật A Di Đàthế giới Phương Tây Cực Lạc, nên đã phổ khuyến đạo tục, dựng một đạo tràng lớn " (6). Đến đời Trần, các nhà tư tưởng lớn như Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Thái Tông Ẩ cũng bàn đến vấn đề niệm Phật. Tư tưởng Tịnh độ với cơ bản là quan niệm về Đức Phật A Di Đà và 48 lời nguyện của Ngài cũng được đặt ra trong các kỳ thi tuyển nhân tài do triều đình tổ chức mà hiện biết được qua bài thi của tiến sĩ Lê Ích Mộc (1459-?), kỳ thi năm 1502. Dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử do Trần Nhân tông chủ trương cũng có nói về Đức Phật A Di Đàthế giới Cực Lạc, tuy ở một sắc thái khác, chúng tôi sẽ đề cập trong phần sau.

Sự phát triển này ngày mỗi mạnh mẽ, nhất là từ cuối thế kỷ XVI trở đi\. Nhiều tác phẩm về Tịnh độ được viết, phiên âm và chú giải nhằm cổ súy và truyền bá cho trào lưu này\. Có thể kể một vài tên tuổi như ngài Viên Văn (1590-1644) viết tác phẩm Bồ đề yếu nghĩa, thuyết minh về Tự tính Di Đà; thiền sư Minh Châu Hương Hải (1628-1708) phiên âm A Di Đà kinh sớ sao của ngài Châu Hoằng; thiền sư Chân Nguyên (1647-1726) với nhiều tác phẩm mang đặc điểm tư tưởng Tịnh độ của Trung Hoa như Phật tâm luận, Tịnh độ yếu nghĩa Ẩ, đặc biệt là đã cho thiết kế ba đài Liên hoa cửu phẩm làm pháp khí trong lễ nghi thực hành niệm Phật (7); thiền sư Tánh Thiên với Phổ khuyến niệm Phật, v.vẨ Sự phát triển đó được tiếp nối cho đến ngày nay, chúng ta có thể thấy tín ngưỡngpháp môn niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Cực lạc là một trong những khuynh hướng tín ngưỡng lớn, nếu không nói là chủ yếu, của Phật giáo nước ta hiện tại\. Tuy nhiên, quan niệm Tịnh độ của người Phật tử Việt Nam mang những điểm đặc thù, dẫu có sự ảnh hưởng nhưng vẫn khác biệt so với Tịnh độ tông của Trung Hoa hay của Nhật Bản.

2.Đặc điểm của trào lưu Tịnh độ tại Việt Nam

Nói "trào lưu" mà không phải là "tông phái", đây cũng là một trong những đặc điểm về sự phát triển của tư tưởng Tịnh độ tại Việt Nam.

Sự lưu hành của các bộ kinh quan trọng thuộc hệ tư tưởng Tịnh độVô lượng thọ và quán Vô lượng thọ ở nước ta vào khoảng nửa đầu thế kỷ thứ V là một điều đáng chú ý, nó cho phép chúng ta nghĩ rằng Việt Nam thời bấy giờ có thể là một trung tâm Tịnh độtiếng tăm ở vùng Viễn Đông mà chùa Tiên Sơn, nơi sư Đàm Hoằng, một vị Tăng Trung Quốc chọn làm chỗ dừng chân tu tập, là một thí dụ. Bởi khi sư Đàm Hoằng đến chùa Tiên Sơn, sau năm 422, cách thời điểm thành lập Bạch Liên xã của ngài Huệ Viễn (334-416), người sáng lập Tịnh độ tông ở Trung Hoa, chỉ khoảng 20 năm (năm 402).

Tuy du nhập Việt Nam từ những thế kỷ đầu của kỷ nguyên Tây lịch, được phổ biếntrở thành một trong những trào lưu chủ yếu của đời sống tín ngưỡng của Phật giáo nước ta, và dẫu có lúc phát triển mạnh mẽ, nhưng tư tưởng Tịnh độ không như ở Trung Hoa và Nhật Bản, hình thành một tông phái với chủ trương, lịch sử truyền thừa chặt chẽ và độc lập, tách biệt với các tông phái khác như Thiền, Mật hay Luật tông. Ở nước ta, nó không đứng biệt lập và không hề thấy xảy ra những tranh luận với các hệ tư tưởng khác cũng như đấu tranh trong tự thân nó để phát triển. Vậy, đặc điểm chung của tư tưởng Tịnh độ tại nước ta là thế nào?

Để có một nhận định chính xác về điều này, chúng ta cần khảo sát và so sánh với Tịnh độ tông ở Trung Hoa và Nhật Bản. Tuy nhiên, ở khuôn khổ một bài báo, chúng tôi không tiện làm việc đó và cũng không thể khảo sát sự phát triển, các mặt tư tưởng của trào lưu này ở các giai đoạn lịch sử, mà chỉ đưa ra vài nhận xét bước đầu qua một số quan niệm đặc thù mang tính chủ yếu mà thôi.

Như đã nói, từ thời vua Lý Thánh Tông, trào lưu Tịnh độ đã phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, các quan niệm bàn luận về A Di ĐàTịnh độ thì mãi đến thế kỷ XIII mới được vua Trần Thái Tông (1218-1277) đề cập một cách chính thức. Trong sách Khoá hư lục, Trần Thái Tông đã có hẳn một đề mục là "Niệm Phật luận", bàn về những lợi ích của phương pháp niệm Phật. Nhà vua quan niệm con người có ba loại : thượng, trung và hạ trí. Bậc thượng trí thì tâm tức Phật, do đó pháp môn niệm Phật chỉ dành cho hai đối tượng là trung và hạ trí. Bên cạnh đó, cũng trong tác phẩm này, về phương diện thực hành, Trần Thái Tông cũng đã soạn "Lục thời sám hối khoa nghi" mà kính lễ Phật a Di Đà và các vị Bồ tát thân cận để sám hối nghiệp chướng là chủ yếu\. tự tính Di ĐàTịnh độ được Trần Thái Tông quan niệm chỉ có ở ngay hiện tiền, trong tâm của con người này mà không phải thuộc một quốc độ khác tồn tại ngoài thế gian. Quan điểm đó cũng thống nhất trong các tác phẩm của Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291) và Trần Nhân Tông (1258-1308) (8). Như vậy, trên mặt lý luận, quan niệm Tịnh độ ở đây được nhìn và giải thích theo đôi mắt thiền. Đấy là một trong những đặc điểm của trào lưu Tịnh độ ở giai đoạn thời Trần nói riêng và cũng là một trong những đặc điểm căn bản trên phương diện lý luận của tư tưởng Tịnh độ tại Việt Nam nói chung.

Sau đó, từ thế kỷ XVII trở đi, tư tưởng Tịnh độ tông Trung Hoa cũng đã được giới thiệutruyền bá ở nước ta, bắt đầu là sư Viên Văn Chuyết Chuyết (1590-1644) với tác phẩm Bồ đề yếu nghĩa, Minh Châu Hương Hải với A Di Đà kinh sớ sao, tư tưởng của ngài Châu Hoằng qua sự giới thiệu của sư Chân Nguyên Ẩ Những mô tả về sự toàn thiện của thế giới Cực lạc, chủ trương niệm Phật để nhẹ nghiệp chướng được phước đức trong đời này, vãng sinh về thế giới Cực lạc sau khi chết cũng được truyền bá rộng rãi, phù hợp với nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của đông đảo quần chúng Phật tử, nhất là cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX,

khi đất nước ta đang rơi vào một hoàn cảnh bị xâm lược, đời sống nhân dân cơ cực lầm than dưới sự đô hộ khắc nghiệt của thực dân Pháp (9). Cũng trong giai đoạn này, nhiều nhóm chuyên thực hành niệm Phật (Liên Trì xã, Niệm Phật liên xã ) được thành lập khắp nơi trong nước. Dấu ấn của cao trào này được thấy qua Phổ khuyến niệm Phật của Thiền sư Tánh Thiên (1784-1847), các tác phẩm của thiền sư Toàn Nhật (1755-1832), Phật Thầy Tây An Ố Đoàn Minh Huyên (1807-1856), các sư Tâm Truyền

(1832-1911), Phước Huệ (1875-1863) v.v.

Tóm lại, trào lưu Tịnh độ ở nước ta dẫu có một lịch sử lâu dài nhưng không tự thân phát triển thành một tông phái, không có vị trí độc lập, tách biệt với các pháp môn khác; đồng thời cũng không phong phú trong lý luậnphương pháp thực hành như Tịnh độ tông Trung Hoa hay Nhật Bản. Ở phương diện lý luận, Đức Phật A Di Đà chủ yếu được quan niệm như một mẫu hình con người lý tưởng tuyệt đốiphương pháp thực hành nổi bật gần như duy nhấtphương pháp niệm Phật. Sự không tách biệt độc lập này, có lẽ thuộc về đặc tính của dân tộc ta, cũng như đã thấy trong truyền thống Phật giáo Việt Nam, qua sự ra đời, sinh hoạttruyền thừa của các dòng thiền. Dẫu là thiền sư, nhưng trong thực hành tâm linh thì vẫn trì tụng thần chú và niệm danh hiệu Phật. Trường hợp các thiền sư Lý Thánh Tông, Tịnh Lực, Trì Bát, Trần Nhân Tông v.vẨ. đã nói sơ lược trên có thể xem là những tiêu biểu.

Tư tưởng Tịnh độ cũng đã có những ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tâm linh, văn hoá, tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam nói riêng và của dân tộc ta nói chung, đặc biệt là trong lĩnh vực nghệ thuật (văn học, kiến trúc, điêu khắc.). Chúng tôi hy vọng sẽ giới thiệu đến độc giả những ảnh hưởng này một cách tập trung hơn vào dịp khác, nhằm góp phần vào việc tìm hiểu những điểm đặc thù của tư tưởngphương pháp thực hành tâm linh trong truyền thống Phật giáo Việt Nam.

1. Vô lượng thọ kinh chủ yếu trình bày những tiền thân của Đức Phật A Di Đà và 48 lời nguyện lớn của Ngài khi chưa thành Phật, khi còn là một tỳ kheo có tên là Pháp Tạng (Dharmakara). Quán vô lượng thọ chủ yếu nói về 16 phép quán liên hệ đến thế giới của Đức Phật A Di Đà và các vị Bồ tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí.

2. Tượng được tạc vào năm 1066, hiện được thờ tại chuà Phật Tích (Vạn Phúc tự), thuộc tỉnh Bắc Ninh.

3. Chuà Một Mái, tức chùa Hoàng Kim, nay thuộc xã Hoàng Ngô, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây\.

4. Theo văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh ở chùa Đọi.

5. Xem tiểu truyện Thiền sư Tịnh lực, trong Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh, Nxb. TPHCM, 1999, trang 223.

6. Theo những dòng chữ khắc trên bệ tượng hình sư tử đội tòa sen ở chùa Một Mái, xã Hoàng Ngô, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây

7. Một trong các đài Liên hoa cửu phẩm đó hiện còn tại chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự), tỉnh Bắc Ninh.

8. Trong bài phú nổi tiếng nói lên chủ trương của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử : "Cư trần lạc đạo phú", ngài Trần Nhân Tông đã viết : "Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn hỏi đến Tây phương, Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc.".

9. Chẳng hạn, trong Phổ khuyến niệm Phật, thiền sư Tánh Thiên đã viết :

"Niệm Phật tội nghiệp tiêu khô
Như sương tan nắng như hồ nước trong
Niệm Phật để đặng tấm lòng
Kẻo mà trắc ẩn mắc vòng gian nan
Niệm Phật Cực lạc hân hoan
Ta bà khổ não giàu sang mấy hồi

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21014)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 23357)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 18882)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 15378)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 46615)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 15271)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 42566)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13050)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 33133)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 51165)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 6572)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 13091)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 29284)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 34303)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 23561)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 30305)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 29991)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 32625)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 10531)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 58535)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 14150)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 11344)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 30919)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25232)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22724)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 33086)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 17650)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 42063)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45628)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32036)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11271)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 27288)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17713)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 12204)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 29081)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28209)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 22684)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 17291)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11853)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34655)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 26283)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 29037)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 13156)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 28885)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 18677)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 46276)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 13788)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 29957)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 22777)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 12494)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 37204)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 36851)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant