Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thể Hiện Bi Mẫn Với Người Sắp Qua Đời Bằng Cách Nào?

16 Tháng Năm 201508:00(Xem: 5601)
Thể Hiện Bi Mẫn Với Người Sắp Qua Đời Bằng Cách Nào?
THỂ HIỆN BI MẪN
VỚI NGƯỜI SẮP QUA ĐỜI BẰNG CÁCH NÀO?

Tỳ-kheo Thanissaro - Nguyên Hiệp dịch


Thể Hiện Bi Mẫn Với Người Sắp Qua Đời Bằng Cách NàoNếu bạn có bạn bè hay người thân đang lâm trọng bệnh hoặc sắp qua đời, tôi biết là không có ai bảo bạn hãy cứ thản nhiên với họ. Mọi người đồng ý rằng bạn nên khởi lòng bi mẫn. Vấn đề là, cách lòng bi mẫn chuyển thành những hành động cụ thể thì lại không mấy giống nhau. Đối với một số người, bi mẫn có nghĩa là kéo dài mạng sống càng lâu càng tốt; nhưng đối với một số người khác, bi mẫn là chấm dứt đời sống - thông qua việc trợ tử - khi mà phẩm chất đời sống của người bệnh không còn là bao. Và không có ai trong hai nhóm này xem nhóm khác là có lòng bi mẫn thực sự. Nhóm trước xem nhóm sau là tội phạm; còn nhóm sau xem nhóm trước là tàn nhẫn và độc ác.

Với chúng ta, những người đang cố vượt qua ranh giới mịt mờ giữa hai thái cực này, không có nhiều sự hướng dẫn đáng tin cậy. Văn hoá của chúng ta là văn hoá không thích nghĩ về bệnh tật và chết chóc. Kết quả là, khi đối mặt với một người nào đó lâm trọng bệnh hay sắp qua đời, chúng ta thường lúng tùng về những gì phải nên làm. Có người khuyên bạn một cách đơn giản rằng là bạn nên làm những gì cảm thấy đúng. Nhưng thế nào là cảm thấy đúng khi cảm giác vốn không dễ nắm giữ và luôn rắc rối. Có những điều ta cảm thấy đúng đơn giản bởi vì chúng khiến ta cảm thấy tốt, bất kể là chúng có thật đúng với người khác hay không. Một ước muốn kéo dài đời sống có thể che dấu nỗi sợ hãi sâu sắc hơn về cái chết của chính bạn; một mong muốn chấm dứt một căn bệnh đau đớn cùng cực có thể tương hợp với nỗi đau đớn của bạn tại lúc phải chứng kiến khổ đau.

Đây là tại sao lời giáo huấn đơn giản rằng phải từ bi hay chánh niệm khi diện kiến một người lâm trọng bệnh hay sắp qua đời là không đủ. Chúng ta cần sự trợ giúp trong việc rèn luyện lòng bi mẫn của mình. Đó là những chỉ bảo cụ thể về cách suy xét rốt ráo những hành động của chúng ta trong việc đối diện với đời sống và cái chết, và những trường hợp cụ thể về việc người xưa đã quán chiếu những vấn đề này như thế.

Với suy nghĩ này, tôi đã tìm kiếm khắp kinh tạng Pali, xem có thể rút ra được những bài học gì từ trường hợp của đức Phật. Trước hết, đức Phật thường bảo rằng Ngài giống như một vị lương y, và Pháp của Ngài như là thuốc cho những khổ đau của cuộc đời. Theo cái nhìn của Ngài, tất cả chúng ta đều đang bệnh và sắp chết ở một mức độ nào đó, vì thế tất cả chúng ta đáng được thương xót. Nhưng lời khuyên mà vị lương y (đức Phật) đưa ra cho những người đang đối mặt với khổ đau bởi bệnh tật và cái chết là gì? Ngài đã chữa trị cho người trần chịu khổ đau bệnh tật vật lý và cái chết như thế nào?

Có thể các bạn đã biết câu chuyện này. Một lần, cùng với tôn giả Ananda, đức Phật trông thấy một thầy tỳ-kheo bị bệnh không người chăm sóc đang nằm co ro trong dơ bẩn. Sau khi tắm rửa cho thầy này, Ngài tập họp các tỳ-kheo khác lại, khiển trách họ về việc bỏ rời pháp hữu, và khuyên họ bằng việc nhấn mạnh rằng: “Những ai chăm sóc ta thì nên chăm sóc người bệnh.” Và Ngài quy định rằng những thầy đang chăm sóc những pháp hữu bị bệnh được phép nhận những phần ăn đặc biệt, để khuyến khích họ trong công việc và giúp họ bớt đi khó khăn. Luật tạng định ra một xử phạt nhỏ cho vị tăng nào từ chối chăm sóc pháp hữu của mình bị bệnh hay sắp qua đời, hay người bỏ mặc một vị tăng bị bệnh trước khi người bệnh này hồi phục hay mệnh chung. Tuy nhiên, không thấy có xử phạt nào dành cho việc từ chối hay bỏ đi việc điều trị y khoa cho người bệnh. Như vậy, giới luật không chuyển tải thông điệp rằng không giữ lấy mạng sống là đang phạm phải một tội lỗi nào đó. Tuy nhiên, một vị tăng cố tình kết thúc mạng sống của một người bệnh, cho dù là vì lòng bi mẫn, sẽ bị trục xuất khỏi tăng đoàn và không bao giờ được phép quay lại đời sống này; vì vậy việc trợ tử hay giúp người bệnh chết không đau là không có mặt trong Phật giáo.

Điều này có nghĩa rằng, điểm trọng tâmlòng bi mẫn chân thực có thể được sử dụng ở đâu. Đức Phật đưa ra một vài hướng dẫn cho trường hợp này bằng việc xác định thế nào một vị lương y lý tưởng. Bạn có đủ tư cách để chăm sóc người bệnh nếu: (1) bạn biết cách chuẩn bị thuốc men; (2) bạn biết những gì có thể sử dụng được cho việc điều trị bệnh nhân; (3) bạn nhiệt tình vì lòng bi mẫn chứ không phải vì lợi ích vật chất; (4) bạn không bực bội với việc lau dọn đồ dơ bẩn do đại tiểu tiện gây ra, hay đàm giãi và đồ nôn mửa; và (5) bạn khéo léo trong việc khuyến khích bệnh nhận nghe pháp vào những thời điểm thích hợp.

Trong năm phẩm chất này, điều được thảo luận trong kinh tạng Pali là điều thứ năm. Vậy những phẩm chất gì được xem là một bài nói Pháp hữu ích và từ bi đối với một người đang lâm bệnh hay sắp qua đời? Còn những gì thì không?

Lại ở đây, những điều “không nên” tách ra khỏi những điều “nên”. Luật tạng thuật lại trường hợp rằng, có vài thầy tỳ-kheo, khuyên một người đang bệnh nên tập trung tư tưởng vào cái chết đang đến gần, với niềm tin rằng cái chết thì tốt hơn trạng thái đau đớn của đời sống bệnh tật. Làm y theo lời khuyên của các thầy này, người bệnh ấy đã qua đời; và đức Phật đã tẩn xuất các thầy này ra khỏi tăng đoàn. Như vậy, theo cái nhìn của đức Phật, khuyến khích một người bệnh buông bỏ đi đời sống, hay từ bỏ ý chí muốn sống thì không được coi là một hành động từ bi. Thay vì cố gắng làm ngắn giai đoạn chuyển tiếp đến cái chết của người bệnh, đức Phật tập trung vào việc giúp vị ấy thấu hiểu khổ đau và sự kết thúc khổ đau.

Điều này là bởi Ngài xem mỗi khoảnh khắc của đời sống là một cơ hội để thực hành và nhận lợi ích từ Pháp. Có một nguyên tắc được nhiều người biết đến trong mọi truyền thống thực hành thiền, rằng một thoáng quán chiếu về khổ đau của hiện tại thì ích lợi hơn việc xem giây phút hiện tại với sự chán ghéthy vọng về một tương lai tốt hơn. Nguyên tắc này áp dụng vào lúc kết thúc đời sống, cũng như vào bất cứ giai đoạn nào của đời sống. Thực tế, đức Phật khuyến khích các tỳ-kheo cần luôn quán chiếu về cái chết như là điều có thể xảy ra bất cứ lúc nào, cho dù khi sức khoẻ còn bình thường, để họ có một ý thức về tính cấp bất trong việc thực hành của họ, và để họ giữ chánh niệm với giây phút hiện tại. Nếu bạn biết xem mọi khoảnh khắc có thể là giây phút sau cùng của bạn, thì khi giây phút sau cùng đến, bạn sẽ đối diện với nó có sự chuẩn bị.

Thường nhất, tuy nhiên, một người bệnh hay sắp chết thì không sống được với sự tỉnh thức cần thiết này, vì vậy điều trước hết trong việc khuyên bảo một người như vậy là hãy từ bỏ đi mọi chướng ngại cảm xúc để quay về hiện tại. Kinh điển Pali nói đến hai sự chướng ngại: lo lắng về những trách nhiệm mà mình để lại, và sợ hãi về cái chết. Có một bài kinh cảm động, kể về một người đàn ông sắp qua đời, và vợ của ông đã an ủi ông là không nên lo lắng. Bà nói rằng bà có thể chu toàn cho bản thân và con cái của họ khi vắng mặt ông; bà sẽ không tái hôn với người đàn ông khác; và bà sẽ tiếp tục tu tập theo Pháp. Với mỗi lời hứa, bà lập lại đoạn, “Vì vậy chớ lo lắng gì khi ông qua đời. Cái chết là khổ đau đối với ai lo lắng. Đức Thế Tôn từng nhắc nhở rằng chớ có lo âu tại thời điểm sắp chết.” Thật bất ngờ, người đàn ông này đã bình phục. Và trong khi vẫn còn rất yếu, ông đã đi đến đảnh lễ đức Phật, thuật lại với Ngài những lời hứa của vợ ông. Đức Phật nhân đó giải thích nhân duyên tại sao người đàn ông ấy có được sự may mắn như vậy, khi gặp một người vợ khôn ngoan và đầy lòng từ mẫn.

Về nỗi sợ hãi cái chết, đức Phật lưu ý rằng một trong những lý do chính của nỗi sợ này là ký ức về những điều gây tổn hại hay xấu ác mà bạn đã tạo ra trong quá khứ. Vì vậy Luật tạng cho thấy rằng, các thầy tỳ-kheo thường an ủi một thầy đồng tu sắp qua đời bằng việc yêu cầu vị ấy nhớ lại điều tích cực nhất - việc chứng đạt thiền cao nhất của vị ấy – và tập trung suy nghĩ của vị ấy vào đó. Theo cách tương tự, sự thực hành phổ biến ở những quốc gia Phật giáo ở châu Á là nhắc nhở người sắp chết nhớ lại những việc làm bố thí hay những hạnh lành mà vị ấy đã thực hiện trong đời sống này. Cho dù người ta không thể tập trung chánh niệm và tỉnh giác cần thiết để đạt lấy một tuệ quán sâu hơn về hiện tại, thì bất kỳ bài giảng Pháp nào mà nó giúp làm giảm đi những lo lắng và ngăn chặn những nỗi sợ hãi là một hành động của lòng bi mẫn chân thực.

Tuy nhiên, đức Phật giảng giải rằng có thêm ba lý do khiến người ta sợ hãi cái chết: chấp thủ vào thân xác, chấp thủ vào những lạc thú giác quan, và thiếu một tuệ quán trực tiếp về Pháp không sinh diệt. Những chỉ dẫn của Ngài dành cho người bệnh và sắp qua đời như vậy tập trung vào việc cắt bỏ những nguyên do sợ hãi này tại căn gốc. Ngài đã từng viếng thăm một người bệnh và bảo các tỳ-kheo ở đó hãy tiếp cận với niệm tử bằng sự chánh niệm và tỉnh giác. Thay vì tập trung vào việc họ có bình phục hay không, họ nên quán sát những trạng thái cảm thọ mà họ đang kinh nghiệm: đau khổ, dễ chịu, hay trung tính. Ví dụ, quán sát một cảm giác khổ đau họ nên chú ý về tính không lâu bền của nó, và rồi tập trung vào tiến trình tan biến liên tục của những cảm thọ khổ đau đó. Sau đó họ có thể áp dụng sự tỉnh giác như vậy vào những cảm thọ dễ chịu hay trung tính. Kiên định trong việc tập trung sẽ làm sanh khởi một tri giác thoát khỏi những cảm thọ giác quan, và từ đây họ có thể phát triển sự tự tạibuông xả, đối với cả thân thể và những cảm thọ. Vì rằng sự buông xả sẽ đưa đến một sự quán sát chân thực vào Pháp mà nó sẽ chấm dứt tất cả những sợ hãi về cái chết.

một lần, Tôn giả Xá-lợi-phất viếng thăm vị thí chủ nỗi tiếng của đức Phậttrưởng giả Cấp Cô Độc, khi ông sắp qua đời. Khi nhận thấy bệnh tình của trưởng giả Cấp Cô Độc đang trở nên tồi tệ, tôn giả khuyên ông hãy tự kiềm chế, theo cách “tôi sẽ không chầp thủ vào mắt; thức của tôi sẽ không phụ thuộc vào mắt. Tôi sẽ không chấp thủ vào tai; thức của tôi sẽ không phụ thuộc vào tai,” và tương tự như vậy đối với sáu giác quan và đối tượng của chúng, và bất cứ trạng thái tâm nào tuỳ thuộc vào chúng. Mặc dù trưởng giả Cấp Cô Độ không thể phát triển được ý thức không tuỳ thuộc này theo những hướng dẫn của tôn giả Xá-lợi-phất, ông đề nghị rằng những chỉ dẫn này cũng cần trao cho những vị cư sĩ khác, vì sẽ có những người hiểu được và có lợi ích từ những chỉ dẫn này.

Hiển nhiên, những chỉ dẫn này được dựa trên lời dạy của đức Phật về việc trạng thái tâm của chúng ta ảnh hưởng đến tiến trình chết và tái sinh như thế nào, nhưng điều đó không có nghĩa rằng chúng chỉ thích hợp cho những người tự nhận mình là Phật tử. Bất kể tín ngưỡng tôn giáo của bạn là gì, khi bạn đối diện với khổ đau bạn chắc chắn sẽ thấy giá trị của những lời chỉ dẫn mà chúng chỉ cho bạn cách làm vơi giảm khổ đau bằng việc khám phá khổ đau ở bên trong. Nếu bạn có khả năng thực hành những chỉ dẫn này, thì hãy thử thực hành theo. Và nếu bạn đạt được sự Bất tử ngang qua nỗ lực của mình, bạn sẽ không còn bận tâm đến việc mình là Phật tử hay không Phật tử.

Điều này được minh chứng bằng một câu chuyện khác cũng liên quan đến tôn giả Xá-lợi-phất. Khi viếng thăm một vị Bà-la-môn cao tuổi sắp qua đời, tôn giả Xá-lợi-phất nghĩ rằng các Bà-la-môn thường mong muốn được hợp nhất với Phạm thiên, vì vậy thầy dạy cho ông lão này cách phát triển bốn thái độ của một vị Phạm thiên - từ, bi, hỷ, xã vô lượng. Làm theo những chỉ dẫn này, vị Bà-la-môn đã tái sanh vào cõi Phạm thiên sau khi qua đời. Tuy nhiên, đức Phật sau đó đã khiển trách tôn giả vì thầy đã không dạy cho vị Bà-la-môn cách quán sát khổ đau, vì nếu làm như vậy, vị Bà-la-môn sẽ kinh nghiệm được niết-bàn và hoàn toàn giải thoát khỏi sinh tử.

Điều đáng chú ý về những chỉ dẫn này là rằng, từ cách nhìn của đức Phật, Pháp cho người sắp qua đời không khác với Pháp được dạy cho người đang có sức khoẻ bình thường. Nguyên nhân khổ đau ở trong mọi trường hợp là giống nhau, và con đường đưa đến sự kết thúc là cũng giống nhau: hiểu rõ khổ đau, đoạn trừ nguyên nhân, nhận ra sự chấm dứt của nó, và phát triển những đặc tính tâm mà chúng đưa đến sự chấm dứt đó. Khác nhau duy nhất là rằng trạng thái cận kề cái chết khiến cho việc giảng Pháp vừa dễ hơn lại vừa khó hơn. Dễ hơn bởi vì người bệnh đã thoát khỏi những trách nhiệm ngoại tại và có thể thấy rõ sự cấp thiết trong việc thấu hiểu và giải thoát khổ đau; khó hơn bởi vì bệnh nhân có thể quá suy yếu về cả thể lựcý chí, do vì sợ hãilo âu, để áp dụng những chỉ dẫn vào trong thực hành.

Theo kinh nghiệm cá nhân của tôi - cả nơi việc quán sát những vị thầy của tôi đã thực hiện những chỉ dẫn này và cả nơi việc nỗ lực thực hiện chúng cho bản thân – tôi đã học được hai bài học quan trọng. Thứ nhất, những bệnh nhân thích hợp nhất cho việc thực hiện Pháp khi lâm bệnh hay lúc sắp qua đời là những người không khổ đau với những ký ức về những điều gây hại và xấu ác mà họ đã làm trong quá khứ, và những người đã có tiến bộ trong thực hành thiền trước thời điểm họ bị bệnh. Cho dù người thực hành đó không phải là Phật tử, bằng trực giác họ cảm nhận được thông điệp của đức Phật về khổ và có thể sử dụng thông điệp đó làm giảm đi những khổ đau của chính họ. Bài học ở đây là rằng nếu bạn biết bạn sẽ chết vào một ngày nào đó, bạn sẽ tránh làm những điều xấu ác và bắt đầu thực hành thiền cho chính mình, để sẵn sàng đón nhận bệnh tật và cái chết khi chúng đến. Như vị thầy của tôi, ngài Ajaan Fuang, đã từng nói, khi bạn thực hành thiền là bạn đang thực hành cách để chết – cách giữ chánh niệm và tỉnh giác, cách làm giảm khổ đau, cách kiểm soát những suy nghĩ luôn thay đổi và có thể đạt đến sự Bất tử - để khi thời điểm cận kề cái chết, bạn sẽ có kinh nghiệm để thực hành nó.

Bài học thứ hai là rằng nếu bạn muốn giúp người khác vượt qua sự sợ hãi về cái chết, bạn cũng phải học cách vượt qua nỗi sợ hãi của bạn về cái chết, bằng việc từ bỏ sự thủ chấp vào thân xác, từ bỏ sự thủ chấp vào những thú vui giác quan, tránh làm những điều xấu ác, và có một tuệ quán về sự Bất tử. Với việc vượt qua nỗi sợ của chính mình, bạn sẽ có ảnh hưởng tích cực hơn trong việc giảng Pháp cho người sắp qua đời. Bạn sẽ không bối rối trước cái chết. Bạn có thể truyền đạt trực tiếp những điều cần thiết cho người sắp chết, và những lời của bạn sẽ có trọng lượng hơn, vì chúng đến từ kinh nghiệm trực tiếp. Lòng bi mẫn của bạn được huấn luyện không phải bằng sách vở hay cảm giác, mà bằng một tuệ quán sáng suốt về những gì chết và những gì không chết.

Cuối cùng, hai bài học này hợp lại thành một: hành thiền, như là một hành động bi mẫn đối với chính bạn và với cả người khác, dù khi cái chết dường như còn ở rất xa. Khi thời điểm chết cận kề, bạn sẽ giảm đi gánh nặng cho những người đang quan tâm đến bạn. Đồng thời, nếu bạn được mời đến trợ giúp những người lâm trọng bệnh hay sắp qua đời, lòng bi mẫn của bạn sẽ thật sự hữu ích hơn, và bạn sẽ có một thông điệp hữu hiệu hơn để truyền đạt.


Tỳ-kheo Thanissaro - Nguyên Hiệp dịch
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 20949)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 23247)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 18796)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 15324)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 46467)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 15200)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 42435)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 12991)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 33023)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 51035)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 6515)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 13038)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 29179)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 34220)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 23434)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 30188)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 29884)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 32509)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 10486)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 58303)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 14066)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 11290)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 30817)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25131)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22642)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 32956)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 17597)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 41963)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45495)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 31939)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11228)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 27187)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17609)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 12143)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 28947)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28078)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 22583)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 17245)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11803)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34562)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 26211)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 28967)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 13100)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 28774)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 18569)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 46118)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 13724)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 29855)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 22651)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 12442)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 37092)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 36739)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant