Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

4. Nghi Thức Tọa Thiền

22 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 4347)
4. Nghi Thức Tọa Thiền


Thiền Tịnh Song Tu

Ni Trưởng Thích Nữ Như Thanh
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Việt Nam
PL. 2544 – TL. 2001

NGHI THỨC TỌA THIỀN

Hành giả bước vào giai đoạn chuyên tu tịnh nghiệp thù thắng, tất nhiên phải đề khởi công phu đúng theo phương pháp tịnh định mới đem lại kết quả hoàn bị. Do đó, phải sắp bày phương thức sau đây:

A- NGHI THỨC NHẬP THIỀN:

Sau khi đã trình bày phần lý thuyết của pháp hành thiền, soạn giả xin giới thiệu nghi thức nhập thiền giúp cho chư hành giả nương vào đây mà hành trì, tu tập cho đúng phương pháp, hầu đạt đến chỗ SỰ, LÝ viên dung.

1) Nguyện hương:

Tịnh pháp giới chơn ngôn: ÁN LAM TÁ HA (3 lần)

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Giới hương, Định hương dữ Huệ hương
Giải thoát, Giải thoát tri kiến hương
Quang minh vân đài biến pháp giới
Cúng dường thập phương Tam bảo tiền.

Nam mô Hương Cúng Dường Bồ-tát ma ha tát (3 lần)

Thử nhất biện hương
Kim lư chiếu diệu
Ngọc bỉnh huy hoàng
Siêu hồ nhựt nguyệt chi quang hoa
Hàm đẳng sơn xuyên chi tú lệ
Chiếu lâm hiển hách, phú đảo vô tư
Ngô kim nguyện thử tâm hương
Cúng dường quá khứ, hiện tại, vị lai
Thập phương chư Phật, Bồ-tát sát hải vạn linh.
Nguyện thử tâm hương, đồng qui chơn tế.

Diễn dịch:

Một mảnh hương này
Lò vàng rực rỡ
Bình ngọc chói chang
Ơn sâu ảnh hiện
Sáng hơn trăng trời sáng chói
Đẹp hơn non sông tươi đẹp
Lòng từ chứng chiếu tâm thành
Hiển hách hiện ra tỏ rõ
Nguyện cầu khắp cả mong ơn
Lợi lạc nơi nơi ứng hiện
Con nay nguyện tâm hương này
Cúng dường quá khứ, hiện tại, vị lai
Mười phương chư Phật, Bồ-tát sát hải vạn linh.
Nguyện đem tâm hương này đồng về tột cõi Chơn.

NAM MÔ THẬP PHƯƠNG THƯỜNG TRỤ TAM BẢO TÁC ĐẠI CHỨNG MINH.

* Tư thời đệ tử….pháp danh… phát nguyện tiến tu pháp môn hành Thiền trượng thừa hoằng nguyện, Phật ân gia bị, công đức viên thành, đạo tâm phát triển, tự tha lưỡng lợi, hạnh nguyện lưu thông. Ngưỡng nguyện Phật ân, từ bi gia hộ.

NAM MÔ CHỨNG MINH SƯ BỒ TÁT

2) Đảnh lễ:
* Chí tâm đảnh lễ Nam mô Thập phương pháp giới Thường trụ Đại giác Phật Đà Da.

* Chí tâm đảnh lễ Nam mô Thập phương pháp giới Thường trụ Chánh pháp Đạt Ma Da.

* Chí tâm đảnh lễ Nam mô Thập phương pháp giới Thường trụ Thanh tịnh Tăng Già Da.

3) Kệ bảo chung:
Nhật sắc một thời lâm dạ sắc
Hồn cù nhiễu nhiễu hựu trùng tăng
Đồ tri ngoại điểm tha gia chúc
Bất khẩn hồi qui tự kỷ đăng.
Ngưỡng lao Đại chúng văn chung thanh nhất tâm kế niệm.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT (3 lần)

Diễn dịch:

Ánh trời vừa lặn
Bóng tối kề bên
Một cảnh mịt mờ
Lần lần che lấp
Mãi ngắm nhà ai sáng tỏ
Đành quên đèn của nhà mình
Kính mong Đại chúng nghe tiếng chuông ngân,
bỏ hết nhọc lao cùng tôi kính niệm.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT (3 lần)

(tiếp theo câu niệm Phật, Đại chúng cùng đọc bài kệ của Giới thiền sư)

4) Bài kệ của Giới thiền sư:
Giấc mộng lớn đương mê chợt tỉnh
Bừng mắt ra vừa chín nồi kê
Tỉnh tâm Chánh pháp nương về
Nguyện trao chí cả chẳng nề khó khăn

Đời Đạo hạnh tâm năng cao nhã
Đức Tôn sư nong nả trao truyền
Ai người hữu chí, hữu duyên
Thảo am thiền thất thọ truyền chánh nhơn

Rành một pháp không sờn tâm nguyện
Dẫu muôn năm nào chuyển ý tình
Bóng vàng tay ngọc tươi xinh
Dắt dìu chỉ bảo tâm linh rộng truyền

Khéo câu nói Đạo Thiền lặng tỏ
Mở mắt thần, một ngõ cảm thông
Cơ duyên đạo lý tâm đồng
Bước đường tịnh nghiệp cùng dòng thuận êm.

5) Động tác chuyển mình:

Chuyển mình có 4 động tác:

a) Động tác vòng trái, vòng mặt: Ngồi xếp bằng, để hai tay trên đầu gối, từ từ xoay cả thân mình về bên trái. Sau đó, xoay qua bên mặt, làm ba lần như thế.

b) Động tác vòng hẹp, vòng rộng: Ngồi xếp bằng, hai tay chống nơi hông, từ từ xoay mình tưởng tượng như dùng cây com-pa vẽ nửa vòng tròn, tâm điểm là thân mình. Ban đầu vẽ vòng nhỏ (xoay ít), sau vòng được nới ra lần lần (xoay nhiều). Sau khi nới rộng vòng cung thật lớn thì từ từ thu hẹp lại để trở về vị trí ban đầu.

c) Động tác vòng cúi, vòng ngước: Ngồi như cũ, hai tay để thẳng lên đầu, từ từ đưa tay và cúi người xuống cho đến khi tay và đầu gần chấm sát đất thì từ từ đưa tay lên ngửa ra sau (làm ba lần).

d) Động tác vòng lên, vòng xuống: Ngồi như cũ, đưa hai tay ngang vai rồi từ từ đưa lên đầu, lòng bàn tay hướng ra phía trước. Khi hai bàn tay vừa sáp vào nhau thì từ từ hạ xuống, tới khi vừa chạm đất lại từ từ đưa hai tay trở lên như trước (làm ba lần).

6) Kệ kiết già:
Kiết già phu toạ,
đương nguyện chúng sanh,
Bồ-đề kiên cố,
bất đắc động địa.

ÁN A RỊ CHIẾC RA DA TÁ HA (ba lần).

(cách thức kiết già, hành giả y theo các sách đã dạy rõ, đây khỏi dẫn bày)

7) Kệ chánh thân:
Chánh thân đoan tọa,
đương nguyện chúng sanh,
tọa Bồ-đề tòa,
tâm vô sở trước.

ÁN PHẠ TÁT RA, A NI BÁT RA NI, ẤP ĐA DA TA PHẠ HA (ba lần).

8) Nhiếp tâm điều tức:
Hít không khí vào đầy lồng ngực, quán tưởng rằng: những đức tính từ, bi, hỷ, xả cũng theo đó mà vào rồi tuôn tỏa khắp châu thân. Sau đó há miệng thở ra, quán tưởng thán khí này đem theo cả tam độc tham, sân, si ra khỏi thân tâm hành giả (ba lần).
9) Thiền Tịnh song tu:

Khi hành giả nhiếp tâm điều tức để nghiêm tịnh thân tâm, thân tâm đã được nghiêm tịnh rồi, hành giả mới nên nhập Thiền. Pháp Thiền trong giai đoạn đầu gọi là Thiền Tịnh song tu. Pháp này cốt yếu giúp cho hành giả tận dụng cả hai phương diện, vừa tu Thiền vừa tu Tịnh, để hành giả thấy rõ tu Thiềncông năng mở mang trí huệ, định tĩnh tinh thần. Tu Tịnh có công năng phát khởi tín tâm, trồng sâu Đạo lực. Hai bên cùng trợ giúp lẫn nhau trong bước đầu tu học Chánh pháp, vừa củng cố tâm niệm, vừa đoạn trừ vọng hoặc, mau đắc thành Diệu quả vô sanh.

Pháp tu này phải chú tâm vào hơi thở, niệm Phật và đếm số.

Ban đầu, hành giả hít vào từ từ vừa khởi niệm "NAM MÔ A DI" cho hơi thở vào trụ dưới rốn độ ba phân, dừng lại một phút, hoặc hai phút, rồi từ từ dẫn hơi thở đi dọc theo xương sống, lên tới đỉnh đầu, lại trở xuống mũi, thoát ra ngoài, khởi niệm "ĐÀ PHẬT" rồi đếm số 1. Niệm Phật và đếm như vậy từ 1 đến 10 rồi trở xuống 9, 8, ... cho đến số 0. Đây gọi là thuận nghịch niệm Phật. Đếm số là giúp cho sự trụ tâm được an tịnh, tránh khỏi sự tán loạnhôn trầm.

B- NGHI THỨC XẢ THIỀN:

1) Kệ xả già:

Xả già phu tọa,
đương nguyện chúng sanh,
quán chư hạnh pháp,
tất qui tán diệt.

ÁN PHẠ LỒ CHỈ ĐẾ TÁ HA (ba lần).

Đọc kệ Xả già xong, buông lơi hai chân cho thong thả, kế đó há miệng hà hơi ra ba lần rồi đọc bài kệ sau đây:

2) Bài kệ của Tánh Không Thiền sư:
Trọn ngày rảnh không lời xao xuyến,
Nghiền ngẫm xem một tiếng cũng không.
Ngẫm sâu tột nẻo, cùng dòng
Nhìn soi cho đến tỏ thông đáy lòng

Lại vượt thấu rừng thông, chót núi
Đảnh Tu-di ở cuối lưng trời
Nhẹ nhàng trái trở buông lơi
Hai tay rỗi rảnh khắp nơi thanh bình

Tâm với Pháp lặng thinh không sắc
Đức cùng Tài im phắc như như
Trăm chim sao chẳng giã từ
Xuân về Thiền chủ tâm tư ai bàn.

Hành giả vừa đọc kệ vừa thấm ngẫm tinh thần đạt đạo của bài kệ để giúp cho Tâm, Pháp được khế nhập Đạo quả giải thoát.

3) Đọc kệ xong, hành giả theo thứ lớp mà chà xát thân thể.

C- PHƯƠNG PHÁP CHÀ XÁT THÂN THỂ:

1) Dùng hai ngón tay cái nghiêng lại chà xát vào nhau chừng năm lần cho ấm, xong rồi áp trên MÍ MẮT vuốt ba lần, mỗi lần vuốt xong, chà xát trở lại cho ấm (làm ba lần xong mới mở mắt ra).

2) Chà xát hai ngón tay rồi áp lên SỐNG MŨI sau đó đưa thẳng hai tay làm ba lần y như trên.

3) Xòe thẳng hai bàn tay, chà xát thật mạnh cho nóng hai bàn tay rồi áp vào hai bên MÀNG TANG (ba lần).

4) Sau đó lần lượt chà xát và áp vào:

- Gò má
- Hai trái tai
- Hai gân cổ
- Hai vai
- Trước ngực
- Dưới bụng
- Hai bên hông
- Hai bên mông
- Hai vế
- Hai ống chân
- Hai lòng bàn chân
Chà áp xong, cúi mình xuống, đưa hai tay thẳng tới trước mặt, dùng hai bàn tay nắm hai đầu ngón chân cái kéo thẳng lên cho gân cốt giãn ra (ba lần).

Xong, nghỉ một chút cho hơi thở bình thường rồi đứng lên. Đi kinh hành, trở lại chỗ ngồi Thiền tụng Bát-nhã.

5) Tụng Bát Nhã Tâm Kinh.

6) Hồi hướng:

Tọa thiền công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh
Tốc vãng Vô Lượng Quang Phật sát

Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ-tát đạo

Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thoái Bồ-tát vi bạn lữ

Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhất thiết
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai cộng thành Phật đạo.

7) Phục nguyện:
Nam mô A Di Đà Phật,

Tư thời đệ tử chúng đẳng nhất tâm tọa Thiền, niệm Phật kỳ nguyện: Phật pháp trường tồn, Tăng, Ni thanh tịnh, huệ đăng thường chiếu, pháp hải lưu thông, khai lục độ chi hạnh môn, diệt tam kỳ chi chướng nghiệp.

Kiếp kiếp thường hành Bát-nhã, thời thời chứng ngộ Chơn thường. Cánh ký cửu huyền thất tổ, lịch đại tôn thân, cập kỳ Sư trưởng, lương bằng đồng đắc Bồ-đề, đồng đăng Bảo địa.

Phổ nguyện: Đệ tử chúng đẳng, đồng tu Chánh pháp, đồng học Thiền cơ, đồng chứng Pháp thân, đồng thành Chánh giác.

Âm siêu dương thới, hải yến hà thanh, pháp giới chúng sanh, tề thành Phật đạo.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.

8) Tam tự quy y:
- Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại Đạo, phát vô thượng tâm.
- Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải.
- Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý Đại chúng, nhất thiết vô ngại.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7229)
Minh Tâm là một yếu pháp trong hết thảy các pháp và Tịnh Tâm là một yếu hạnh trong hết thảy các hạnh. Nhưng cái yếu pháp Minh Tâm không chi bằng niệm Phật.
(Xem: 6761)
Khi tâm mình nhẹ nhàng, thảnh thơihạnh phúc thì ba nẻo đường đen tốiđịa ngục, ngạ quỷsúc sanh không thể xuất hiện.
(Xem: 6173)
Đã mấy chục năm trôi qua, sinh ra làm người giữa cuộc đời này, cho đến hôm nay, hương linh đã chính thức kết thúc cuộc đời con người,
(Xem: 5649)
Nếu bạn có bạn bè hay người thân đang lâm trọng bệnh hoặc sắp qua đời, tôi biết là không có ai bảo bạn hãy cứ thản nhiên với họ.
(Xem: 4930)
Mục đích thứ nhất của chúng ta khi tu học Phật Pháp đương nhiên là để liễu thoát sanh tử luân hồi, ra khỏi tam giới.
(Xem: 5336)
Hành giả tu học pháp môn Tịnh Độ, tất yếu đầy đủ tư lương Tịnh Độ. Những gì gọi là tư lương?
(Xem: 6641)
Bất cứ một ai khi trì tụng thần chú Đại Bi với tất cả tâm thành, chắc chắn sẽ đạt được tất cả những điều mong cầu, ước nguyện bởi vì oai lực của Thần chú là rộng khắp, vô biên...
(Xem: 5955)
Phật Pháp đến nơi nào thời cũng làm lợi ích cho chúng sanh, làm cho chúng sanh được vui vẻ và được an vui...
(Xem: 11989)
Nguyện con sắp đến lúc lâm chung, Trừ hết tất cả các chướng ngại, Tận mặt thấy Phật A Di Đà, Liền được sanh về cõi Cực lạc.
(Xem: 5736)
Tâm thức chánh niệm hay tán loạn của con người khi lâm chungyếu tố quyết định cho sự vãng sanh Tịnh độ hay đọa lạc về các cảnh giới khổ đau.
(Xem: 7042)
Người Nhật khi nghe đến Shinran Shonin (Thân Loan Thánh Nhân) họ liền hiểu ngay gần như là Giáo Tổ của Tịnh Độ Tông Nhật Bản,
(Xem: 5494)
Trong xã hội ngày nay, với nhiều biến loạn và nhiễu nhương, những người phát tâm học Phật chân chính cần phải có một nhận thức sáng suốt.
(Xem: 5877)
Do chúng sinh có nhiều bệnh, nên đức Phật mới lập ra nhiều pháp môn, nhưng tất cả giáo lý đều lấy giác ngộ làm đích đến.
(Xem: 4907)
Tu học pháp môn niệm Phật là có thể mang nghiệp vãng sanh, nhưng chúng ta cũng tận lực, hy vọng có thể mang đi ít một chút.
(Xem: 4450)
Chúng ta học được từ nơi Phật Bồ Tát là ở ngay trong cuộc sống thường ngày, nhất định phải dùng tâm chân thành, chân thì không giả, thành thì không hư vọng...
(Xem: 8233)
Thiền (hay Thiền–na) là âm của tiếng Phạn "Dhyana", là pháp môn "trực chỉ Chơn tâm, kiến tánh thành Phật".
(Xem: 6521)
Một câu A Di Đà Phật làm cho chúng ta tỉnh lại. Sau khi tỉnh rồi mới biết được chính mình vốn dĩ là A Di Đà Phật, chính mình vốn dĩ là Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 7396)
Tất cả chúng ta đang sống trong Ánh sáng Vô lượng (Vô lượng Quang) và Đời sống Vô lượng (Vô lượng Thọ), trong bổn nguyện của Phật A Di Đà,
(Xem: 5809)
Phật giáo không phải là tôn giáo, mà là giáo dục. Giáo dục Phật giáo cứu cánh viên mãn, giúp chúng ta phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui.
(Xem: 5470)
Ở Trung Hoa, kinh Quán Vô Lượng Thọ đóng một vai trò quan yếu trong giai đoạn đầu tiên của sự truyền bá Tịnh độ tông hơn bất kỳ kinh văn nào khác của tông nầy.
(Xem: 6404)
Niệm Phật là một trong những pháp môn tu hành rất căn bản được Đức Thế Tôn chỉ dạy rất rõ ràng, hiện còn lưu lại trong các bản kinh cổ nhất,
(Xem: 6739)
Tịnh Độphương cách thích hợp nhất để đạt thành tựu trong một kiếp, và là cách tốt nhất để cứu độ chúng sinh.
(Xem: 7533)
Gặp được Phật pháp rất khó! Trên đời này không có pháp nào thoát ly sanh tử, chỉ có giáo pháp của Phật mới ra khỏi sinh tử luân hồi.
(Xem: 4871)
Tâm thường đế trụ, độ thế chi đạo, ư nhất thiết vạn vật, tuỳ ý tự tại, vi thứ giá loại, tác bất thỉnh chi hửu.
(Xem: 4620)
Học Phật trước tiên phải làm người tốt, xử lý tốt mối quan hệ giữa người với người rồi, tiến thêm một bước, chúng ta phải xử lý tốt mối quan hệ với môi trường tự nhiên.
(Xem: 5259)
Trong bộ kinh này, đức Phật dạy chúng ta phương pháp để cái tâm được thanh tịnh.
(Xem: 12611)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9685)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10443)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10298)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9886)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11999)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10133)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10775)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9887)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8760)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9487)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14506)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8768)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 9063)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 9323)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8781)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10494)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9174)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8348)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 9391)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8965)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9572)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9011)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 8340)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8934)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8959)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8730)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9359)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 9028)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8752)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 4076)
Ngày nay, nhiều người niệm Phật A Di Đà để cầu vãng sinh Tây phương Cực Lạc. Điều này phù hợp với đại nguyện của đức Phật A Di Đà cứu độ chúng sinh về cõi Tịnh độ của Ngài để tiếp tục tu hành tới ngày thành Phật.
(Xem: 9027)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 9854)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 8629)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant