Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hoa Sen Chín Phẩm

29 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 4539)
Hoa Sen Chín Phẩm


NHẤT HẠNH

THIẾT LẬP TỊNH ĐỘ
Kinh A Di Đà Thiền Giải
Lá Bối, Hoa Kỳ 2000 - Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội - 2004

Hoa Sen Chín Phẩm

 

Người ta nghĩ rằng ở cõi Tịnh Độ sen được chia thành chín bậc.Những người vãng sanh sang bên đó có nhiều trình độtùy theo trình độ đó mà người ta có chất thánh nhiều hay ít, và chỗ ngồi của họ được tượng trưng bằng hoa sen ‘‘chín phẩm’’.Khi còn ở trong cõi Ta bà này, trong giờ phút hiện tại, mỗi khi quý vị niệm câu ‘‘Nam mô Bụt A Di Đà’’ với tâm thành khẩn, chuyên nhất, thì chất liệu của chánh niệm được phát sinh, và tự nhiên ở bên cõi Tịnh Độ một bông sen búp được tượng hình. Đó là một hình ảnh rất đẹp, rất thi ca.Hãy khoan xem đó là một sự thật khách quan.Hãy xem đó trước hết là một hình ảnh thi ca rất đẹp.Mặc dầu nó là một búp sen nhỏ xíu nhưng mà nó đã có mặt.Tôi vẽ trên bảng, chia bảng thành hai phần.

Phần này là cõi Ta bà.Phần kia là Tây phương Tịnh Độ.Mình là một chúng sanh đang ở bên này, tức là ở cõi Ta bà.Mình niệm Bụt một câu.Ở bên phần kia, một bông sen tượng hình.Đây là hình ảnh mà người ta hay sử dụng để thực tập.Tùy theo công phu thực tập mà bông sen bên kia lớn nhanh hay lớn chậm.Bông sen ấy là để dành cho mình.Mình sẽ sinh ra trong bông sen ấy.Khi bông sen lớn và già giặn rồi thì nó nở ra.Ngay lúc đó ta được sinh ra.Ta xuất hiện từ bông sen.Ta được sinh ra từ một bông sen (chứ không phải từ một bắp cải).

 

cõi Tịnh Độ có chín phẩm sen.Theo ‘‘Quán A Di Đà Phật Kinh’’ thì chín phẩm chia làm ba trình độ, mỗi trình độ có ba phẩm và khi mình sinh sang cõi đó mà sinh vào phẩm thấp nhất là "hạ phẩm hạ sanh".Nếu là thượng căn thượng trí thì ta sanh ở phẩm ‘‘thượng phẩm thượng sanh’’.

 

Ba trình độ được sinh làm chín phẩm như sau:

 

Thượng phẩm- Thượng phẩm thượng sanh

Thượng phẩm trung sanh

Thượng phẩm hạ sanh

Trung phẩm - Trung phẩm thượng sanh

Trung phẩm trungsanh 

Trung phẩm hạ sanh

Hạ phẩm - Hạ phẩm thượng sanh

Hạ phẩm trung sanh

Hạ phẩm hạ sanh

 

Mới nghe, ta có cảm nghĩ bên cõi Cực Lạc mà cũng có giai cấp xã hội và có sự kỳ thị giai cấp.Nhưng ta hãy coi chừng.Ta phải học với sự thông minh của ta.Khi ta sinh ra ở Tịnh Độ với tư cách hạ phẩm hạ sanh thì tuy ta đã qua được bên đó nhưng ta vẫn còn mang theo rất nhiều khổ đau.Có phải vậy không?Ta rất cần tới Tăng thân bên đó ôm ấp và nâng đỡ để chuyển hóa.Vì còn khổ đau nên mặc dầu đã ở Tịnh Độ mà ta không hưởng được hết một trăm phần trăm niềm vui của Tịnh Độ.

Ta chỉ hưởng được năm phần trăm của niềm vui đó thôi, hay có khi còn ít hơn.Nhưng sự kiện ta đang ở Tịnh Độ là một điều mầu nhiệm lắm rồi, mặc dù ta còn đau khổ, còn nghi ngờ, mặc dầu thỉnh thoảng ta còn muốn bỏ đi. Đã ở Tịnh Độ rồi, nhưng ta vẫn còn trồi lên sụp xuống rất nhiều.Cho nên ta phải cần đến Tăng thân.Chúng ta cần phải bám lấy Tăng thân.Tịnh Độ là vậy.Ở bên kia, có những người hạnh phúc rất lớn, vì họ được sinh ra trên những bông sen thượng phẩm thượng sanh.Nhưng cũng có người còn khổ đau.

 

Đôi khi mình tự hỏi:Tại sao cùng sống trong một môi trường mà người kia nhiều hạnh phúc như vậy?Họ cười vui suốt ngày.Còn ta, ta cũng muốn cười lắm chứ.Thấy họ cười vui, ta cũng ráng cười theo, nhưng nhìn vào gương ta thấy nụ cười ta méo xẹo.

 

Nếu muốn hiểu về Tịnh Độ, ta phải nhìn thực tế vào Tăng thân trong đó ta đang sinh hoạt, lúc đó ta sẽ biết Tịnh Độ là gì và biết mình đang ngồi trên loại sen nào; sen thương phẩm, sen trung phẩm hay là sen hạ phẩm.

 

Tại sao trong cùng một Tăng thân, cùng trong một hoàn cảnh, cùng một Thầy, cùng những người bạn tu, nhưng có người thì hạnh phúc quá chừng, thảnh thơi quá chừng, còn mình thì vẫn cảm thấy đau khổ, cảm thấy cô đơn.Mình còn có cảm tưởng rằng mình là công dân hạng bét của tăng thân nữa là khác.

 

Hãy lấy một ví dụ.Tăng thân Làng Mai đang đi thiền hành với Thầy.Cũng Thầy đó, cũng những sư anh đó, những sư chị đó, cũng những sư em đó, cũng đi trên con đường đó, cũng thấy những hàng cây và nghe những tiếng chim đó.Nhưng tại sao có người đi thiền hành thì đạt được rất nhiều hạnh phúc, nhưng cũng có người không đạt được hạnh phúc bao nhiêu.Đó có phải là tại vì ngoại cảnh hay tại vì tâm tư riêng của mình?Câu trả lời thật dễ dàng.Cái đó không phải do ngoại cảnh, mà là do tâm, bởi vì tất cả ngoại cảnh đều do tâm biểu hiện.

 

Cũng bước đi từng bước như vậy, nhưng tại sao người ta thì lại thảnh thơi, vững chãi.Còn mình thì lại xụt xùi, vướng víu bên này, bên nọ.Vậy thì vấn đề đâu phải là ngoại cảnhChúng ta đừng tưởng rằng được vãng sanh qua cõi Tịnh Độ thì hết vấn đề và ta khỏi cần phải tu tập gì thêm.Nghĩ như vậy thì quá sai lầm.Tại vì được vãng sanh sang bên đó cũng giống như đã thi đậu vào trường đại học.Mà tại trường đại học thì ta phải học rất nhiều ‘‘cua’’.Cho nên ta không thể cúp ‘‘cua’’ được, ta phải đi học cho đều, phải đi công khóa cho đều.

 

Bụt A Di Đà tuy rất hiền, nhưng Ngài rất muốn chúng ta tu họcthương yêu nhau như là con một nhà.Đó là tại vì mình muốn Bụt A Di Đàtừ phụ, là đấng cha lành, nghĩa là người cha chỉ thương yêu, dạy dỗ, mà không rầy rà, không la mắng.

 

Chúng ta hãy nhìn vào Tăng thân của chúng ta để quán chiếu.Ban đầu chúng ta đã nhờ một cơ duyên nào đó mà đi tới được với Tăng thân này.Thật sự là ta đang ở với Tăng thân.Nhưng cái sự thật ta đang ở trong Tăng thân không có nghĩa là ta không còn có vấn đề gì nữa.Ta đã gia nhập tăng thân với những nỗi khổ và niềm đau còn lại của ta.Nhưng ta đã rứt ra được hoàn cảnh ngày xưa, và ta đã tới được với Tăng thân: đó là đã một thành tựu lớn.Và vì vậy ta phải biết thực tập, tức là phải đưa nỗi khổ niềm đau ra để cầu xin Tăng thân ôm ấp nó cho ta, và ta cũng phải thực tập để tự ôm ấp nỗi khổ niềm đau ấy để chuyển hóa chúng.

 

Chúng ta phải biết nương tựa Tăng thân, phải hoàn toàn phó thác thân mạng mình cho Tăng thân.Tại vì Tăng thân là cơ hội duy nhất để giúp ta ôm ấp và chuyển hóa nỗi khổ niềm đau của ta.Có thể là ta đã qua tới cõi Tịnh Độ rồi, nhưng vẫn chưa ngồi chưa yên và hoa sen trên đó mình ngồi chưa hẳn là hoa sen.Mình nói rằng Tịnh Độ này không phải của tôi.Đó là tâm trạng của chúng sanh.Có khi đến một hoặc hai năm sau thì cái suy nghĩ ấy mới không còn.Hạt giống muốn bỏ nhà ra đi, người nào trong chúng ta cũng có.Tất cả mọi đứa trẻ đều có một lần muốn bỏ nhà ra đi do giận cha, giận mẹ, giận anh hoặc giận chị.Có phải vậy không?Hạt giống ấy không phải tự mình làm ra mà đã được trao truyền từ nhiều đời.Cho nên qua tới Tịnh Độ rồi mà thỉnh thoảng ta vẫn muốn bỏ Tịnh Độ mà đi.Cái đó là chuyện rất thường thôi bởi vì hạt giống bỏ nhà ra đi ấy trong ta vẫn còn chưa được chuyển hóa.

 

Các thầy, các sư cô, các sư chú và các Phật tử ở đây ai cũng biết rất rõ chuyện này.Nếu có phước đức của tổ tiên, chúng ta sẽ không bỏ đi.Kiên trì ở lại được vài ba năm thì ta thấy gốc rễ ta vững mạnh và ta bắt đầu có thế di lên rất vững chãi. Điều đó đòi hỏi một niềm tin nơi Tăng thân, một niềm tin nơi cõi Tịnh Độ mới được.

 

Bụt A Di Đà luôn luôn có mặt đó để ôm ấp ta, các bậc thượng thiện nhân cũng luôn luôn có mặt để ôm ấp ta.Nhưng vì quá đau khổ, thành thử ta không hưởng được cái hạnh phúc mà Bụt A Di Đà hay những bậc thượng thiện nhân thương tưởng và trao truyền.Đôi khi nhìn mặt Bụt A Di Đà, có thể ta thấy ngài không dễ thương mấy.Tại vì ta không thảnh thơitự tại để có thể nhìn được rõ.Nhìn cái gì ta cũng thấy bị bóp méo, vì ta đang bị vô minh che lấp tâm tánh.Muốn nhìn thấy Bụt A Di Đà trong tự thân của Ngài, ta phải có sự tĩnh lặng, sự tự do. Còn nếu nhìn qua cặp mắt kính của hờn giận và của ganh tức thì chúng ta chưa thể thấy được Bụt A Di Đà.

 

Sự thật là như vậy.Cho nên diễn tả Tịnh Độ bằng chín phẩm hoa sen tuy là đúng sự thật, nhưng cũng rất nguy hiểm.Nguy hiểm ở chỗ ta có thể nghĩ:Ở cõi Tịnh Độ mà cũng còn giai cấp, sang bên này rồi mà mình cũng còn phải làm công dân hạng thứ chín chứ không phải hạng thứ nhì, và suy nghĩ như thế, mình sanh tâm ganh tức những người kia.Nhưng sự thật không phải như vậy.Những người kia sở dĩ họ có hạnh phúc không phải vì họ được Bụt A Di Đà thương yêubiệt đãi hơn đâu.Bụt đâu có tâm kỳ thị chúng ta.Vì tâm của ta còn nhiều vô minhđau khổ cho nên ta nghĩ rằng ta đang bị bạc đãi, ta đang bị kỳ thị, ta đang làm công dân hạng nhì, hạng ba hay hạng chín.Tất cả những mặc cảm đó là do mình mà ra.

Đi sang cõi Tịnh độ rồi mà hạt giống của Ta bà khổ đau vẫn còn và vẫn hiện khởi, cho nên ta không hưởng được trọn vẹn cái vui của Cực Lạc.Trong khi đó những người khác lại hạnh phúc quá chừng.Điều này ta đâu phải cần đi qua bên đó nhìn tận mắt mới thấy.Ngồi đây, ở trong Tăng thân này, mình cũng có thể thấy được rồi.Ở trong Tăng thân mình cũng thấy có chín phẩm.Có những người cảm thấy rất thoải mái, rất hạnh phúc, nhưng cũng có những người vẫn còn nhảy nhỗm, vẫn còn muốn bỏ đi, vẫn còn giận hờn, vẫn còn cảm tưởng bị kỳ thị.

 

Điểm này trên bảng chỉ cho cõi Ta bà, còn điểm bên kia chỉ cho cõi Tịnh Độ.Điểm này là điểm bây giờ, và điểm kia là điểm lúc đó - lúc đó là lúc sau khi mình chết và được sanh sang cõi Tịnh Độ.Đây là điều chúng ta cần phải để ý.Bởi vì ta đang thực tập theo nguyên tắc ‘‘bây giờ và ở đây’’.Và ta có thể nghĩ rằng ta thực tập là để đạt được một kết quả trong tương lai, nghĩa là sẽ được sinh ra ở điểm bên kia.Trong lúc thực tập, đôi khi ta cũng sinh tâm chán bỏ, chán ghét bên này.Chán ghét bên này mà đi tìm bên kia, chán ghét bây giờ để đi tìm một cái gì trong tương lai.Đây là tâm lý của chúng sanh, rất có tính cách phổ biến.

 

Tâm niệm của chúng sanh thường chán ghét hiện tại và nghĩ rằng hạnh phúc chỉ có thể có mặt trong tương lai.Mình chán ghét cái ở đây và mình đi tìm một cái ở nơi khác.Vì vậy, Bụt mới xót thương và mới nói rằng có một cõi Tịnh Độ ở phương Tây.Điều này nghe như một lời hứa hẹn.Đây là một điều rất quan trọng cần phải quán chiếu.Nếu muốn thật sự hiểu được kinh, ta cần phải quán chiếu cho sâu sắc.

 

Đối tượng sự ước muốn và sự thờ phụng của mình ban đầu thường nằm ở ngoài mình, như Thượng đế, như Ky-tô, như Bụt, như Tịnh Độ, như nước Chúa, v.vv...Lúc đó mình có cảm tưởng ở đây và bây giờ không có gì hết, chỉ có khổ đau, chỉ có tàn hoại, chỉ có héo hắt, chỉ có sầu não thôi.Chính vì thế mình mới cần bám vào một cái gì ở nơi khác và ở trong tương lai. Đó là nước Chúa, là Tịnh Độ, là Niết Bàn, là Bụt, là Bồ tát, là Ky-tô.Tâm chúng sanh thường nghĩ như vậy.Sự suy nghĩ này bắt đầu từ một mặc cảm mình là một con số không.Mình đi tìm một cái gì bên ngoài mình.Mình không biết rằng những gì bên ngoài ấy đều là những điều do tâm mình phóng chiếu ra cả.

 

Khi mình tạo ra một bức tượng để thờ, dù là tượng Phật hay tượng Chúa, tượng điêu khắc hay tượng vẽ, thìbức tượng ấy cũng từ trong tâm mình mà đi ra.Cái tượng ấy nếu không phải từ trong tâm mình đi ra thì nó từ đâu tới?Tâm mình thảnh thơi, nhẹ nhàng thì nét mặt trên tượng sẽ thảnh thơi, nhẹ nhàng.Tâm mình nặng trĩu buồn đau thì mình khó mà tạo ra cho được một pho tượng có khuôn mặt thảnh thơi.

 

Do đó, tất cả những hình ảnh của Thượng đế, của nước Chúa, của Tịnh Độ, đều là những sáng tạo của tâm.Và đó mới là những hình ảnh chứ chưa phải là những thực tại.

 

Khi ta tạc ra một pho tượng Bụt để thờ, và thấy pho tượng không được đẹp cho mấy, ta không dám bỏ đi, không dám đập vỡ, cứ nghĩ rằng đập vỡ thì mang tội.Nhưng tượng đó là do tâm làm ra, chứ đâu phải ở ngoài đi tới.Tri giác sai lầm căn bản là ở chỗ chúng tamặc cảm rằng chúng ta không là gì hết, chúng ta chỉ là khổ đau và tiều tụy.Vì vậy chúng ta mới đi tìm kiếm một cái gì có giá trị ở bên ngoài.Những khi ta chắp tay cầu nguyện, ước mơ, hoặc quán tưởng thì tự nhiên trong tâm có sự bình yên trở lại.Có niềm tin, tâm từ từ tĩnh lặng.Có tĩnh lặng thì bắt đầu có trí tuệ, từ từ ta thấy được rằng cái mà ta tưởng rằng ở ngoài, nó thực sự đang ở trong ta. 

 

Ban đầu ta thấy Bụt là một thực tại ở ngoài ta.Sau một thời gian tu tậpgiác ngộ, ta thấy Bụt là một thực tại ở trong ta.Và nếu ta tu tập tinh tấn, thì ta thấy Bụt không phải ở trong cũng không phải ở ngoài.Tại vì ở ngoài và ở trong chỉ là hai ý niệm, trong khi sự thật vượt thoát các ý niệm ở trong và ở ngoài.Ta thử hỏi:Ở trong là ở nơi nào?Nơi lá phổi hay nơi lá lách, hay nơi trái tim?Có một chỗ nào nhất định không?Chính vì thế, các ý niệm ở trong và ở ngoài đều chỉ là những ý niệm.Nói rằng Bụt, Niết Bàn, Tịnh Độ và nước Chúa không thể được gọi là ở ngoài, ở trong hay ở chặng giữa được.Tại vì những ý niệm kia đều chỉ là những phạm trù của tư tưởng mà thôi.

Điều này rất là quan trọng để cho mình hiểu được kinh.Và như vậy, đi tìm Tịnh Độ hay đi tìm Bụt có nghĩa là đi tìm tự thân của chúng ta.‘‘Con đã tìm ra Thế Tôn, con đã tìm ra con.’’Hai câu đó của bài thơ Tìm Nhau chỉ có nghĩa như vậy.Ban đầu thì ta đi tìm Thế Tôn như một thực tại ở ngoài, nhưng khi tìm ra được Thế Tôn rồi thì ta thấy rằng Ngài không phải là một thực tại bên ngoài.Tìm thấy Thế Tôn đồng thời cũng là tìm thấy được tự thân, và ta thấy được rằng Thế Tôn và ta không phải là hai thực tại riêng biệt.

 

Khi ta niệm một câu ‘‘Nam mô Bụt A Di Đà’’ thì một búp sen nhỏ được tượng hình ở trong đất Bụt.Niệm thêm một tiếng nữa thì bông sen lớn lên thêm một chút.Cùng với công phu niệm Bụt ấy mà đóa hoa sen lớn lên từ từ.Đóa sen đó là đóa sen của ta.Khi thành công rồi, thì ta sẽ được sinh ra từ đóa sen đó.Đóa sen đó có thể là hạ phẩm, trung phẩm hay là thượng phẩm, điều này tùy thuộc vào công phu tu tập của chúng ta.Đóa sen đó nằm ở bên kia, nó được để dành cho những ai có tâm tu tập, dù là thời gian này hay thời gian khác, dù thực tập nhiều hay ít.Nó bắt đầu tượng hình ở bên kia nhưng đồng thời nó cũng đang được tượng hình ngay trong lòng mình.Có phải vậy không?

 

Điều này là một điều rất khoa học.Khi sư chú thở vào một hơi thởchánh niệm và biết mỉm cười, thì búp sen của sự an lạc và của hạnh phúc đã tượng hình trong người của sư chú, đã nở trong trái tim của sư chú.Một đóa hoa an lạc của tình thương và của tĩnh lặng.Ta dùng hình ảnh của một hoa sen để tượng trưng cho sự an lạc và tĩnh lặng ấy.

Tại sao phải đợi đến tương lai mới được hưởng bông sen kia?Tại sao ta phải đợi qua Tây phương rồi mới được hưởng bông sen kia?Chỉ cần một câu niệm Bụt thành khẩn, chỉ cần một hơi thởchánh niệmchúng ta có thể hưởng được bông sen của sự an lạc và của thảnh thơi ngay bây giờ và ở đây.Và Tịnh Độ nằm ngay ở đây và bây giờ chứ không phải đâu xa.Đây là điều mà mình phải thấy.Đây là cách nhìn Tịnh Độ bằng con mắt của các nhà thiền quán.Thiền đây không hẳn là thiền Tổ sư hoặc thiền Như Lai mà là thiền nguyên thỉ, nghĩa là thiền mà chính Bụt và các thầy, các sư cô thực tập cách đây hai ngàn sáu trăm năm, như thiền Niệm Xứ, thiền Quán Niệm Hơi Thở, thiền Hiện Pháp Lạc Trú.Chúng ta thường hay quên rằng đức Thế Tôn đã từng dạy chúng ta pháp môn ‘‘Hiện Pháp Lạc Trú’’, sống an lạc ngay trong giờ phút hiện tại.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14679)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46171)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 21048)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 23396)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 18900)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 15397)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 46660)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 15294)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 42588)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13096)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 33195)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 51218)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 6594)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 13111)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 29316)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 34362)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 23586)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 30352)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30025)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 32658)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 10556)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 58605)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 14171)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 11359)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 30962)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25272)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22761)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 33121)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 17660)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 42107)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45664)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32059)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11289)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 27329)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17741)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 12235)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 29117)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28245)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 22730)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 17310)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11877)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34683)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 26306)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 29070)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 13169)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 28907)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 18723)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 46327)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 13800)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 29980)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 22807)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 12517)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 37245)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 36900)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant