Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 33

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10342)
Phần 33


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 33)

 

Pháp Sư Tịnh Không

 

Loại thứ hai gọi là “Ân điền”, báo ân. Ai có ân với chúng ta? Trước tiêncha mẹ, nhất định phải báo đáp. Báo đáp cha mẹ là trồng phước điền. Kế đến là thầy giáo. Sinh mạng của chúng ta được nhờ ở cha mẹ, còn trí tuệ của chúng ta, nhà Phật nói “pháp thân huệ mạng” là nhờ thầy giáo. Ân đức của thầy giáo cùng cha mẹ không hề khác. Trong cổ lễ Trung Quốc nói rất nhiều lý do vì sao thời hiện đại không có hiếu đạo. Cho nên sư đạo cũng không có. Sư đạo được xây dựng trên nền tảng của hiếu đạo. Phật phápsư đạo, chúng ta gọi Thích Ca Mâu Ni Phật là “bổn sư”, thầy giáo sáng lập đầu tiên. Giáo dục Phật đà từ nơi ngài sáng lập, nên chúng ta gọi ngài là thầy giáo căn bản, người sáng lập đầu tiên. Mỗi niệm chúng ta đều không quên ngài. Trên giảng đường, chúng ta cúng dường tượng Phật, cúng dường hình tượng thầy giáo, ý nghĩa này chính là báo ân, không quên nguồn gốc. Chúng ta nơi đây làm công tác giảng giải, cùng với đồng tu học tập kinh điển, cũng giống như ở trước mặt Phật vậy. Phật Bồ Tát chứng minh cho chúng ta. Đó là báo ân, trồng phước điền.

Ngoài thầy giáo cha mẹ, thì chư Phật Bồ Tát, tổ sư đại đức, tất cả thiện tri thức đều là ân điền. Mở rộng hơn, quốc giaân đức bảo hộ hoàn cảnh đời sống của chúng ta được an ninh. Tất cả chúng sanhân đức hỗ trợ hợp tác cúng dường đời sống thường ngày cho chúng ta, đây chính là kệ hồi hướngchúng ta vẫn đọc: “trên đền bốn ân nặng”. Tất cả chúng sanh đều có ân đức với chúng ta, đó là ân điền.

Loại thứ ba là “Đức điền”. Chỉ riêng nêu ra Tam Bảo thì Phật Pháp Tăng không chỉ có ân đức với chúng ta, mà các ngài còn là ruộng công đức, nên gọi là “đức điền”. Đó là chuyên chỉ Tam Bảo. Tam Bảođại trí tuệ, đại đức, đại năng, giáo hoá chúng sanh. Muốn trồng phước điền, chúng ta phải đến những nơi này. Dù năng lực chúng ta không đạt đến nhưng không thể không có tâm. “Tâm thừa mà sức thiếu”, tâm không khởi vọng tưởng khống, mà phải chân thật.

Hiện nay báo chí đăng tin, nạn nước rất nghiêm trọng. Năm xưa mỗi lần nạn nước, chúng ta luôn tận tâm tận lực quyên tiền giúp đỡ cư dân khu vực tai nạn. Năm nay khu vực tai nạn mở rộng, đồng thời lại bị ảnh hưởng kinh tế, khiến chúng ta không biết làm thế nào. Có phương pháp gì hoá giải tai nạn không? Có. Trị tận gốc chính là giáo hoá chúng sanh diệt trừ tham sân si; tu giới định huệ. Việc này có lợi ích gì với thực tế? Người thế gian thường không tường tận. Rất nhiều tai biến có quan hệ mật thiết với lòng người. Kinh Phật thường hay nói: “y báo tuỳ theo chánh báo chuyển”. Vì sao chúng ta không nghe nói Thế Giới Tây Phương Cực Lạc có nạn lụt, hay thế giới Hoa Tạng có động đất? Nơi đó không có vì nơi đó không có nhân, thì họ làm gì bị những thứ này.

Nước là từ lòng tham biến hiện ra, lòng tham con người ngày càng lớn thì nước sẽ càng nhiều. Lửa từ sân hận, địa chấn từ bất bình của lòng người. Chúng ta nói những lời này, người thông thường sẽ cho rằng không có chứng cứ khoa học nên không thể tin tưởng, không thể tiếp nhận. Khoa học thực tế rất non nớt nên vẫn chưa đạt cảnh giới này. Đến khi đạt được cảnh giới này, chúng ta đã phải chịu khổ nạn vô cùng rồi, chờ họ thừa nhận có ích gì. Cho nên diệt trừ tham sân si, liền có thể tự nhiên tiêu trừ tai ách thế gian. Hiện tại chúng ta thường du lịch nước ngoài, mỗi quốc gia khu vực, lòng người tham sân si mỗi năm một tăng, thật đáng sợ. Tôi không hề nghe nói nơi nào đó, ý niệm tham sân si đã bình hoà, đã giảm; ngược lại, mỗi ngày đang gia tăng tốc độ.

Lòng tham mang đến nạn nước, sân hận mang đến nạn lửa, ngu si mang đến gió bão, bất bình mang đến động đất; người hiện tại đều làm ra. Mỗi năm mỗi tăng, lần sau luôn nghiêm trọng hơn lần trước, “có nhân ắt có quả”. Người hiện tại thường vẫn không tin tưởng.

Phật pháp còn nói: “tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”, không phải không có phương pháp trị phần nổi. Tài nguyên sức người của Trung Quốc đứng đầu thế giới, sức lao động nhiều đến vậy nhưng không hề được vận dụng tốt, để những sức lực này lãng phí, thật đáng tiếc. Cho nên ở công tác trị phần nổi, mỗi năm chúng ta có nạn nước, thì phải học Đại Vũ trị thuỷ, hiểu rõ địa hình, rồi dẫn đạo dòng nước từ phương hướng nào đó chảy về biển cả. Công cụ khoa học hiện đại tiến bộ hơn rất nhiều so với ngày trước, chúng ta có thể khai mương dẫn nước, mở rộng ao hồ.

Lịch sử ghi chép, động đình từ trước là 800 dặm, còn hiện tại chưa đến 300 dặm. Bạn phải biết hồ lớn khi nước lụt đến trở thành hồ chứa nước. Cho nên dọc theo sông dài hồ lớn, nhất định có phải nhiều hồ bạc của thiên nhiên. Chúng ta phải giữ gìn, phải dùng máy móc nạo vét sâu hơn và rộng hơn để sức chứa của nó nhiều hơn. Đồng thời bên cạnh khu vực sông, có thể dùng nhân công giữ đê, giảm thiểu nạn nước. Công trình thuỷ lợi vô cùng quan trọng, là kiến thiết cơ bản của quốc gia. Tương tự, đường giao thông, đường sắt, đường quốc lộ đều là kiến thiết cơ bản.

Vì sao Hoa Kỳ duy trì cường thịnh đến như vậy? Vì họ xây dựng cơ bản quá tốt. Thế nhưng công trình thủy lợi Hoa Kỳ vẫn có chỗ chưa đủ. Bình thường khi khô hạn, tưới tiêu ruộng vườn, không chướng ngại nhà nông thu hoạch nông sản. Khi nước nhiều thì chứa nước, không đến nỗi tạo thành nạn lụt. Ngoài công trình cơ bản hiện tại, còn thêm công trình phát điện. Trên thế giới có rất nhiều nơi lợi dụng thuỷ lợi để phát điện. Trung Quốc có sông dài hồ lớn, cũng phải từ bề nổi mà làm. Khoảng sau năm đến mười năm, Trung Quốc vĩnh viễn sẽ không có nạn lụt, đó là đại công đức, đại bố thí. Nền tảng này xây dựng kiên cố thì toàn quốc đều phát triển. Không chỉ ở khu vực Duyên Hải mà ngay đến đất liền thảy đều phát triển. Do đây có thể biết, việc ở người làm. Chúng ta phải nghĩ vì chúng sanh tạo phước.

Lại nói đến hiện tại trước mắt, đại chúng hiện tiền chúng ta đối với bốn câu kinh này, nên làm thế nào để tu, làm thế nào thực tiễn ngay trong đời sống hiện tiền? Cư Sĩ Lâm là một đạo tràng trang nghiêm đúng pháp, mọi người công nhận, không phải cá nhân tôi tuỳ tiện nói. Chúng ta phát tâm đến đây nghe kinh, niệm Phật, chính là thực tiễn bốn câu kinh văn này.

Nếu bạn muốn hỏi, chúng ta đến đây nghe kinh hai giờ đồng hồ, niệm Phật mấy giờ đồng hồ, với “điều chúng sanh, tuyên diệu lý” có liên quan gì? Giảng đường của Cư Sĩ Lâm mỗi ngày giảng kinh hai giờ. Chúng ta phát tâm để giờ giảng kinh mãi mãi không gián đoạn, đó là tuyên diệu lý. Đến nghe kinh là làm chúng ảnh hưởng cho mọi người, khiến người sơ học Phật thông thường dần dần nghe được, dần dần thấy học Phật có chỗ tốt đến như vậy, lợi ích nhiều như vậy. Còn nếu các vị cảm thấy Phật pháp rất hay, ở trong nhà tu cũng được, không cần phải đến thì nơi giảng kinh này liền trống vắng thưa thớt. Những người sơ học vừa nhìn thấy bèn chán nản, tín tâm sẽ không có. Họ nghĩ vị pháp sư này giảng không hay nên sẽ không đến.

Người đến nghe kinh là Bồ Tát, là chúng ảnh hưởng, bất tri bất giác, ảnh hưởng đông đảo quần chúng trong xã hội, đó là trồng phước. Bạn nghe kinh ở nhà rất thuận tiện nhờ đường truyền internet liên thông. Thế nhưng, nghe kinh trong nhà chỉ có tự lợi, không thể lợi tha. Bạn không thể tạo ra sức ảnh hưởng. Còn đến nơi đây nghe kinh chính là lợi được hai bên. Chúng ta phải trồng phước điền, phải làm chúng ảnh hưởng. Tương tự, bạn ở nhà niệm Phật cũng tốt, nhưng vì sao phải đến nơi đây niệm? Vì để trang nghiêm đạo tràng, cũng là làm chúng ảnh hưởng. Cho nên trong đạo tràng, niệm Phật đường đều có Bồ Tát đang niệm, Phật đang niệm, thiên long quỷ thần đang ở niệm Phật đường niệm Phật rất nhiều. Như vậy là tu công đức, phước đức, không nhất thiết phải tốn tiền, chỉ cần có thời gian. Thậm chí bạn đến đây ăn một bữa cơm cũng là trồng phước. Đạo tràng tuyên dương Phật pháp, ăn cơm cũng tuyên dương.

Cư Sĩ Lâm hiện nay là thế giới đệ nhất gia, mỗi ngày cúng dường ba bữa cơm, không cần tốn tiền. Tương lai còn có thôn Di Đà, đến nơi đây ở cũng không cần tốn tiền. Chỉ cần bạn chịu thành thật niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Nơi đây là đạo tràng thành tựu cho người vãng sanh bất thoái thành Phật. Chúng ta ở đây tu phước đặc biệt dễ dàng, không cần bỏ tiền nhiều, một đồng hai đồng đềucông đức hy hữu. Nhiều người đang ở đây thật tu thật làm, cho nên phước điền này là phước điền chân thật, công đức nơi đây cũng là công đức chân thật.

“Dĩ chư pháp dược, cứu liệu tam khổ”

Tam khổ” chỉ chúng sanh sáu đường, mở rộng thêm chút là hữu tình mười pháp giới. “Dĩ chư diệu dược” là pháp dược. Dược là thí dụ tất cả pháp Phật đã nói. Hiện tại trước mắt chúng ta, người thế gian khổ cùng cực. Nói cách khác, ngày nay chúng ta đang ở đêm trước của đại tai nạn. Tỉ mỉ quan sát, đại sư Ấn Quang ở đầu năm Dân quốc. Mọi người đều biết Ấn tổ là Bồ Tát Đại Thế Chí Thế Giới Tây Phương Cực Lạc tái sanh, một trong hai vị Bồ Tát trợ thủ cho Phật A Di Đà. Quan âm chủ đạo từ bi, Đại Thế Chí chủ đạo trí tuệ. Đó là một vị Bồ Táttrí tuệ bậc nhất. Ngày trước tôi từng giới thiệu, trong Phật pháp Đại thừa, thông thường lấy Bồ Tát Văn Thù đại biểu cho trí tuệ, nhưng Bồ Tát Văn Thù biểu thị trí tuệhọc rộng nghe nhiều”, là trí tuệ phổ thông. Còn trí tuệBồ Tát Đại Thế Chí đại biểu là “một môn thâm nhập”. Hai vị đều rất hay. Trí tuệ của Bồ Tát Văn Thù phải là người thượng căn lợi trí. Căn tánh thượng thượng mới có thể học, người hạ hạ căn thì không thể học được. Còn trí tuệ của Bồ Tát Đại Thế Chí đại biểu, “trùm cả ba căn, ngu ngôn đều thâu”. Người hạ hạ căn cũng có thể học, một môn thâm nhập. Một môn thông thì mỗi môn đều thông. Thành tựu của họ không khác gì với Bồ Tát Văn Thù, nhưng thủ pháp hoàn toàn không giống nhau, chúng ta phải hiểu ý này.

Đại sư Ấn Quang thị hiện ở đầu năm Dân quốc. Ngài biết thế gian này sẽ có tai nạn. Dùng phương pháp gì để cứu? Phật pháp không được, vì mọi người không tin, cho rằng mê tín. Hơn nữa văn tự kinh điển trúc trắc, người thông thường không dễ gì hiểu. Dùng những đạo lý của nhà Nho để cứu thế gian còn không kịp. Nhà Nho gọi “mười năm trồng cây, trăm năm trồng người”. Nho Phật tuy tốt nhưng đều không cứu kịp. Đại sư bèn chọn lấy “Thái Thượng Cảm Ứng Thiên”, “Liễu Phàm Tứ Huấn”, “An Sĩ Toàn Thư”, dùng ba thứ này để cứu vãn xã hội hiện thực của chúng ta. Rất là đạo lý, trí tuệ chân thật.

Nguyên lý của ba thứ này chính là nhân quả. Trong kiếp nạn sắp đến, mọi người không tin Nho, không tin Phật, không tin thánh hiền, tuỳ tiện làm càn. Đối với tình hình như vậy, chỉ duy nhất một cách là giúp họ thông suốtNhân quả báo ứng”. Cả đời đại sư cực lực đề xướng nhân quả. Ngài chọn lựa ra ba loại sách này. Mở sách ra xem, bản thân mỗi chúng ta cùng những người xung quanh có ai làm được một trong ba loại? Có câu nào bạn huỷ phạm? Chúng ta tỉ mỉ quan sát mới phát hiện có rất nhiều người gần như hoàn toàn phạm phải những tội hành nghiệp nhân đã nêu trong đó. Đa số người đều phạm, tạo thành cộng nghiệp chiêu cảm.

Ngày nay toàn thế giới tai biến. Trước khi đại tai biến đến gần, chúng ta muốn tiêu diệt nó cũng không dễ dàng. Nhưng nếu muốn nó chậm lại hoặc giảm nhẹ một chút vẫn còn có thể làm được. Cách làm thế nào? Lòng người phải giác ngộ, hồi đầu. Mọi người biết lợi hại được mất, chân thật xả bỏ lợi ích của riêng mình. Phải quan tâm đến lợi ích của xã hội đại chúng. Trước tiên phải có ý thức như vậy, có quan niệm lý luận như vậy. Sau đó giảm nhẹ tham sân si mạn của chính mình, chú trọng luân lý đạo đức. Có như thế, kiếp nạn liền kéo chậm lại, vấn đềchuyển biến của lòng người.

Ấn tổ dùng pháp dược để giúp chúng ta vượt qua ải quan trước mắt. Tín đồ Cơ Đốc phương Tây thường nói “1999 là ngày tàn của thế giới”. Lời nói này đã từ rất lâu. Chúng ta nghe cảm thấy không quá đáng chút nào. Nhìn vào dấu vết hiện tại, dường như năm tới không dễ gì vượt qua. Mấy năm gần đây vì sao tai nạn lần sau luôn kéo dài hơn lần trước, lần sau luôn nghiêm trọng hơn lần trước? Dường như là ý này.

Thế nhưng, người học Phật chúng ta lại không thừa nhận câu “Ngày tàn thế giới”, vì sao? Thích Ca Mâu Ni Phật nói, “mạt pháp” của Phật là 9000 năm. Đó là từ nước ngoài mà tính, không tính từ Trung Quốc. Lịch sử Trung Quốc ghi chép, Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ đến hôm nay là ba ngàn không trăm hai mươi mấy năm. Về sau còn chín ngàn năm nữa, ngày tháng còn dài. Cho nên thời nay không phải là “thế giới ngày tàn”, nhưng một chút tai nạn vẫn có thể có.

Ngày trước tôi thân cận đại sư Chương Gia. Đại sư từng nói với tôi, thời kỳ mạt pháp 9000 năm, pháp vận của Phật cùng thế vận đều có cao thấp trồi sụt. Nói cách khác, có khi tốt, có khi xuống thấp. Như vậy có nghĩa là từ năm tới lùi về sau có thể vận thế xuống thấp, nhưng không phải ngày tàn. Chúng ta hãy an tâm. Thế nhưng, chúng ta vẫn phải có sự chuẩn bị, nhất quyết đoạn ác tu thiện. Người khác làm hay không chúng ta không quan tâm, nhất định phải làm từ bản thân mình, đó là việc vô cùng quan trọng. Kinh Phật nói rõ ràng, trong cộng nghiệp có biệt nghiệp. Kinh Lăng Nghiêm nói “có cộng nghiệp, có biệt nghiệp”. Nếu biệt nghiệp của chúng ta thù thắng, trong cộng nghiệp vẫn có biệt báo, thì khi tai nạn lớn đến, chúng ta vẫn có thể tránh khỏi. Tránh khỏi không có nghĩa đi tìm nơi tránh nạn, tìm nơi để di dân, không cần thiết phải làm vậy. Làm vậy là không tin tưởng chính mình, lại tìm phiền não cho chính mình.

Năm xưa tôi giảng kinh ở Hongkong. Thời điểm đó gần đến kế hoạch Anh trả lại Hongkong. Một số đồng tu HongKong nghĩ mọi cách để di dân. Tôi khuyến cáo họ, không cần thiết phải làm vậy. Tôi nói theo cách nghĩ và cách nhìn của mình, sau khi trở về, Hongkong nhất định còn tốt hơn so với thời kỳ người Anh thống trị, hà tất phải đi. Một số đồng tu không nghe lời, cố di dân ra nước ngoài. Họ bán sạch nhà cửa ở HongKong. Sau khi trở lại, đem tiền về HongKong nhưng không thể mua lại được, khổ nói không ra lời. Cho nên bất cứ tai nạn sắp đến, người có phước, tức tâm có định, thì quyết không khiếp sợ, không lo lắng, tâm vẫn định. Có định có huệ liền có thể khắc phục được khó khăn. Nó biến nhưng ta không biến, nó động nhưng ta không động, dù ở ải sanh tử chúng ta không thể tránh khỏi. Chúng ta sẽ sanh đến chỗ thiện, một nơi tốt nhất, không ở thế gian này. Đó chính là di dân.

Chúng ta di dân đến thế giới chư Phật, phước địa chân thật. Có thời gian thì một ngày niệm thêm một ngày Phật. Ngay trong cuộc sống thường ngày phải dưỡng thiện tâm, thiện nguyện của chính mình. Nhất định phải nỗ lực chăm chỉ làm cho được “tâm không ác niệm”. Tiêu chuẩn thấp nhất mà Phật nói là Thập Thiện Nghiệp Đạo, “thân” không sát, đạo, dâm; “khẩu” không vọng ngữ, hai lưỡi, thêu dệt, ác khẩu; “ý” không tham sân si. Phải đoạn dứt. Từ sớm đến tối, từ mùng một đến ba mươi ngày, trong lòng nhất định không khởi ý niệm này.

Tâm không ác niệm, ý không tà tư”, cái gì là tà tư? Nhân ngã phải quấytà tư. Phàm hễ trái với lý luận kinh giáo Phật thì tất cả tư tưởng kiến giải đều là tà tư. Phải lấy tiêu chuẩn của Phật để nói, nhất định phải viễn ly kiến tư phiền não. Niệm niệm tâm này là niệm thiện. Ý niệm chí thiện chính là một câu Phật hiệu. Ngoài câu Phật hiệu, ý niệm gì cũng đều xả bỏ. Có như vậy thì mục tiêu phương hướng của đời sống chúng ta mới được xác định. Quyết cầu sanh Tịnh Độ, vãng sanh bất thoái thành Phật. Chúng ta đi trên đại lộ, con đường mà tất cả chư Phật đã đi thì làm sao sai lầm được.

Tai không nghe lời ác, không nghe thị phi. Bất luận người nào đến nói chuyện, chúng ta vẫn “A Di Đà Phật” cắt lời của họ. Tai không nên nghe, miệng không nói lời ác. Tiếp xúc qua lại với người, ít nói lời thừa, khuyên người niệm Phật. Nếu ghi nhớ những câu trong kinh văn thì có thể đọc thêm cho người nghe. Họ ưa thích thì sẽ tiếp tục nghe, còn không ưa thích thì cũng đã nghe rồi.

Người mê học Phật, việc ở thế gian họ sẽ dần dần không hiểu. Khi việc thế gian không hiểu thì bạn liền rời khỏi thế gian này. Càng hiểu nhiều việc thế gian, bạn càng không thể rời khỏi, phiền não của bạn sẽ lớn. Đó là những việc xen tạp của thế gian, chúng ta không nên biết. Ưa thích biết, đều không rời khỏi luân hồi. Chúng ta phải hạ quyết tâm, không làm những việc này.

Thân không tà hạnh”. Tốt nhất chúng ta nên lợi dụng thân thể khỏe mạnh để lạy Phật nhiều. Công đức lạy Phật rất lớn, hiệu quả lạy Phật rất thù thắng. Nếu mỗi ngày lạy một trăm lạy, vĩnh viễn không gián đoạn thì thân thể nhất định khỏe mạnh sống lâu, không bệnh tật. Dùng tâm thanh tịnh lạy Phật, dùng tâm cung kính lạy Phật; khi lạy Phật, không hề có bất cứ vọng niệm nào. Cứ như vậy tự nhiên sẽ cảm ứng tương thông, có cầu ắt có ứng. Đọc thuộc “Liễu Phàm Tứ Huấn”, tin sâu nhân quả, thấu suốt tường tận đối với sự thật lý luận của nhân duyên quả báo, thì sẽ liền biết làm thế nào trải qua ngày tháng trong cuộc sống thường ngày, làm thế nào đối nhân xử thế. Còn hai loại sách “Cảm Ứng Thiên” và “Âm Trắc Văn”, mỗi ngày đọc một lần. Thời khoá sớm tối của mình cần thêm vào, nỗ lực phản tỉnh, nỗ lực kiểm điểm, xem mình có phạm phải những điều đã nói trong sách hay không? Có tu học theo lời khuyên bảo hay không? Mỗi ngày y theo đây mà tu học, bạn có thể tu được ba trăm việc thiện, liền trở thành địa tiên, đó là tiên nhân của nhân gian.

Có đồng tu đem điều này đến hỏi tôi. Tôi trả lời họ, ba trăm việc là ba trăm loại, bạn phải làm cho rõ ràng. Nếu nói ba trăm việc thiện rất dễ dàng, một ngày làm ba trăm việc thiện liền trở thành địa tiên? Thực chất là ba trăm loại việc thiện. Mỗi loại khi gặp thì phải làm được. Nhất định chăm chỉ nỗ lực y giáo phụng hành, đó đều là pháp lạc. Hiện tiền chúng ta, chúng sanh thời đại này, khu vực này là pháp dược rất hữu hiệu. Đại sư Ấn Quang khai mở cho chúng ta, càng nghĩ càng có đạo lý. Hy vọng đồng tu chúng ta đều lưu ý, tỉ mỉ kiểm điểm, y giáo phụng hành, tự nhiên liền có công đức lợi ích thù thắng.

“THĂNG QUÁN ĐẢNH GIAI, THỌ BỒ ĐỀ KÝ, VI GIÁO BỒ TÁT, TÁC A XÀ LÊ, THƯỜNG TẬP TƯƠNG ƯNG, VÔ BIÊN CHƯ HẠNH, THÀNH THỤC BỒ TÁT, VÔ BIÊN THIỆN CĂN, VÔ LƯỢNG CHƯ PHẬT, HÀM CỘNG HỘ NIỆM”

Đoạn kinh văn này tương ưng với nghi thức của thôn A Di Đà ở đoạn “thọ ký Phật hộ”. Chư Phật hộ niệm tu học Phật pháp, dạy bảo mục tiêu sau cùng đều không ngoài hy vọng chúng ta thành Phật ngay đời này. Hơn nữa còn làm Phật cứu cánh viên mãn. Tôi nghĩ các đồng tu, ngày trước tuy đã từng nghe kinh Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà, cho đến các kinh luận đại thừa khác nhưng vẫn còn nghi hoặc, không tin tưởng, huống hồ tin sâu. Do nguyên nhân gì? Vì lý quá sâu, sự quá phức tạp, thường thức phàm phu chúng ta không thể lý giải nên không thể tin sâu. Đó là hiện tượng bình thường.

Lần này ở Singapore, chúng ta hội hợp tại Cư Sĩ Lâm không giống như ngày của mười năm trước. Ngày nay chúng ta khởi giảng đại kinh. Chỉ có Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh mới nói một cách thấu triệt, tường tận. Đó là sự giúp đỡ rất lớn, khiến chúng ta không chỉ sanh khởi tín tâm mà còn tin sâu không hoài nghi. Đồng thời dành thời gian một ngày nói với các vị tường tận kinh Vô Lượng Thọ, cũng chính là thâm nhập Tịnh Độ, giúp chúng ta đoạn nghi sanh tín ở ngay đời này, đích thực thành tựu Phật quả cứu cánh viên mãn. Duyên phận hi hữu thù thắng như vậy quả đúng như kệ khai kinh đã nói “trăm ngàn vạn kiếp khó được gặp”. Cư sĩ Bành Tế Thanh cũng từng phát biểu, vô lượng kiếp đến nay một ngày hi hữu khó gặp. Hôm nay may mắn gặp được, hy vọng chúng ta biết trân trọng nhân duyên hy hữu này, cố gắng nắm giữ nó, thành tựu đạo nghiệp một đời.

“Thăng quán đảnh giai, thọ Bồ Đề ký”

Đoạn kinh văn rất giống khẩu khí của mật tông. Không sai, đích thực là mật pháp. Như vậy “hiển, mật, tông, giáo” viên dung, trong kinh Vô Lượng Thọ, bao gồm giáo nghĩa của các tông các phái. Kinh văn không dài nhưng rất viên mãn. Vậy chúng ta có phải niệm chú, học mật hay không? Không cần thiết vì kinh này đều bao gồm hết, không kém khuyết thứ gì, đích thực là đại viên mãn giáo.

Quán đảnh” là nghi thức mật tông thọ ký. Thế nhưng mật tông quán đảnh phân ra rất nhiều giai đoạn. Ban đầu học Phật thọ tam quy thì thượng sư quán đảnh cho bạn. Bản thân tôi ban đầu học Phật thọ tam quy là nhờ đại sư Chương Gia truyền thụ, cũng nhận qua nghi thức quán đảnh, nhưng đó chỉ là hình thức. Rốt cuộc chúng ta không hiểu ý nghĩa chân thật của quán đảnh. Đại sư cũng không giảng giải tường tận cho chúng ta nghe. Trong nghi thức tuyệt nhiên không có giải thích rõ ràng, bởi vì người nhận quy y số lượng rất đông, thời gian rất thúc bách. Tôi thân cận đại sư nên khi có nghi vấn thì thỉnh giáo với ngài, nhờ ngài khai đạo. Nghi thức quán đảnh, quan trọng nhất là phải hiểu rõ nội dung của nó. “Mật Tạng ký sao” của Đại Tạng kinhgiải thích tỉ mỉ. “Quánthí dụ cho đại bi hộ niệm, ngày nay chúng ta gọi là đại từ bi gia trì, đại từ bi hộ niệm, hoặc người thế gian thường nói “đại từ bi bảo hộ”. “Đảnh” là cao nhất, đầu của người là cao nhất. Đảnh đại biểu pháp môn cao nhất, pháp môn thù thắng nhất, đỉnh pháp trong tất cả pháp môn.

Chúng ta liên kết hai chữ “quán đảnh” lại thì liền rõ được ý nghĩa. Phật dùng đại từ đại bi, đem đảnh pháp viên mãn thù thắng nhất truyền thụ cho chúng ta, đó gọi là quán đảnh. Không phải dùng một ít nước rảy vài giọt lên đầu của bạn thì gọi là quán đảnh. Quán đảnh như vậy không ích gì, chỉ là hình thức biểu pháp. Quan trọng là họ truyền pháp cho bạn, cái pháp này đương nhiên là đảnh pháp chí cao vô thượng. Bạn đạt pháp môn này nhất định được tất cả chư Phật hộ niệm, gia trì, giúp đỡ, khiến bạn khế nhập đảnh pháp, khế nhập pháp môn quả địa cứu cánh Như Lai, đó mới gọi là quán đảnh. Do đây có thể biết, quán đảnh trong hiển giáo của chúng ta quy y trên hình thức, thọ giới trên hình thức, đều không đủ tin cậy. Phật pháp phải nói đến thực chất, chân thật chịu làm.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9051)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 9968)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 10148)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11000)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8984)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9452)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7989)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9226)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 11251)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8636)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9008)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 17422)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 12141)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 25980)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 9511)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 9362)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 9921)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 11281)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 9630)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 10209)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 13576)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 15892)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15526)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 18539)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18983)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18778)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 13774)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19081)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 11647)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23034)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19153)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 18265)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 8645)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 27014)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19908)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15247)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15470)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26771)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 16333)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19345)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19719)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19886)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18599)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 32396)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 20205)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 45881)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 6819)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22697)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 24326)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39194)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 20488)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19855)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 40732)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 18596)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 18431)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
(Xem: 9122)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14166)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 18149)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 17610)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 14649)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant