Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lời Phật Dạy Vua A Xà ThếHọc Thuyết Tây Phương Cực Lạc

23 Tháng Sáu 201704:58(Xem: 11056)
Lời Phật Dạy Vua A Xà Thế Và Học Thuyết Tây Phương Cực Lạc
LỜI PHẬT DẠY VUA A XÀ THẾ
HỌC THUYẾT TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC

Thích Đạt Ma Phổ Giác

loi phat day


Trong kinh có một câu chuyện xảy ra làm đau lòng mọi người khi đức Phật còn tại thế. Một người vì quá tham tàn, bạo ngược, bất chấp cả tình cha con, chính là thái tử A Xà Thế khi bị mê hoặc bởi sa môn Đề Bà Đạt Đa. Việc cướp ngôi bị bại lộ không thành, vua cha Tần Bà Sa La thay vì giết đi đứa con phản nghịch thì lại thoái vị, nhường ngôi cho thái tử.

Ngài làm như thế để thái tử không mang tội cướp ngôi, nhưng vì bản tính hung hăng, tàn bạo, thái tử đáp lại tấmchân tình ấy bằng cách ra lệnh nhốt vua cha vào ngục tối, sau khi chính thức lên ngôi.

Ông cấm không cho một ai được quyền mang thức ăn vào, chỉ ngoại trừ hoàng hậu Vi Đề Hy là mẹ Ngài được quyền vào thăm. Vì sợ chồng chết đói nên bà tìm đủ mọi cách giấu thức ăn mang vào trong ngục nhưng điều bịVuaA Xà Thế phát hiện. Bà rất khổ tâm vì có đứa con ngang tàn, bạo ngược nên bèn tắm rửa sạch sẽ rồi trét bơ sữa lên người, ấy vậy mà bà cũng bị phát giác.

Tàn nhẫn hơn nữa, A Xà Thế cho người vào gọt da chân vua cha rồi trét muối, hơ lửa cho đến chết trong oằn oại,đau thương. Khi cái chết đang dần hành hạ vua cha trong ngục tối, đúng ngay lúc ấy đứa con đầu lòng củavua A Xà Thế chào đời, ông vội vàng chạy đi tìm mẹ để tâm sự với lòng thương yêu trìu mến!

Thưa mẹ hiền, con vừa được tin hoàng nhi chào đời, trong lòng con giờ đây trào dâng niềm thương yêu vô hạn, một niềm cảm xúc dạt dào xưa nay con chưa từng biết đến. Dạ thưa mẹ, ngay bây giờ con yêu hoàng nhi hơn chính bản thân con, không biết ngày xưa phụ hoàng có yêu con như vậy hay không?

Nghe đến đây mẫu hậu Vi Đề Hy nghẹn ngào, tức tưởi, “Sao con hỏi mẹ điều ấy? Mẹ dám chắc trên cõi đời này không ai giàu lòng nhân ái như cha con khi còn tại vị. Cha con lúc vừa nghe tin mẹ có thai, đã vui mừng tột độ dẫnđến quên ăn mất ngủ để chăm sóc cho mẹ.

Rồi mẹ bỗng dưng thèm máu của cha con mà không dám nói ra vì sợ Ngài buồn. Thấy mẹ càng ngày càng xanh xao, gầy yếucha con tìm cách an ủivỗ về. Mẹ mới thú thật cùng cha con như vậy.

Cha con liền trách sao mẹ không nói sớm để đến nỗi thế này. Nói xong cha liền cắt tay cho mẹ nếm máu, kể từ đó mẹ ăn uống lại bình thường. Do điềm ấy mà các nhà tiên tri phỏng đoán con sau này có thể giết cha để cướp ngôi vua, nên mới đặt tên cho con là A Xà Thế, tức “kẻ thù trong bào thai”.

Nghe đến đây mẹ vô cùng sợ hãi nên định phá thai nhưng cha con không chịu, và con chào đời trong niềm vui mừng vô hạn của cha con, mẹ thì trong lòng lo lắng vô cùng, vì sợ điềm ấy sẽ trở thành sự thật”.

Vua A Xà Thế nghe đến đây trong lòng cảm thấy nghẹn ngào xúc động, hai hàng nước mắt tuôn trào trong khóe mắt, ông ngồi đơ người ra như kẻ mất hồn.

Hoàng hậu Vi Đề Hy mới kể tiếp: Con biết không, thuở nhỏ có lần con bị mụn nhọt nơi ngón tay đau đớn không chịu nổi, con gào thét rất nhiều khiến cho vua cha động lòng chịu không nỗi.

Đang họp cùng triều thần nhưng cha con vội bãi trào để vào cung ôm chầm lấy con, ngậm ngón tay vào miệng cho con đỡ đau nhức mà yên giấc ngủ ngon lành. Ngờ đâu mụn nhọt bị vỡ ra khiến máu và mủ tuôn trào, sợ con tỉnh giấc nên cha con đã nuốt hết vào bụng. Nghe đến đây vua A Xà Thế liền hoảng hốt kêu la thất thanh, “quân bây đâu, quân bây đâu, mau thả cha ta ra liền lập tức!”Vua A Xà Thế miệng la, chân chạy như kẻ mất hồn để tìm đến ngục tối, nhưng khi đến nơi vua Tần Bà Sa La đã chết từ lâu rồi.

Ôi cha chết, hai tiếng buồn thê thảm.
Giờ ăn năn, thì đã quá muộn rồi.
Ôi trần thế, con tìm cha đâu nữa.
Khi làm cha mới quý tình phụ tử.

Tình đời là thế đó! Khi lòng tham lamích kỷ con người khởi lên thì lý trílương tâm bị mê mờ. Được vua cha tha tộichết vì nghĩ con còn non dại và sẵn sàng nhường ngôi báu, ấy vậy mà đứa con vẫn ngang tàngngỗ nghịch, không hiểu luân thường đạo lý là gì, nên đã hành hạ cha cho đến chết.

Vậy mà vua Tần Bà Sa La sau khi chết đi, vẫn về báo mộng cho đứa con bất hiếu người đã được sanh Thiên nên dặn con cứ an lòng và đừng đau buồn nữa. Vua Tần Bà Sa La đúng là người cha nhân từđức độ có một không hai trên thế gian này.

Trước đó vài năm, thái tử Sĩ Đạt Ta vượt thành xuất gia cầu đạo, nghe nói thành Vương Xá đất nước Kiều Tát La là nơi có đời sống tâm linh cao độ nên Ngài đã tìm đến nước này để học đạo giác ngộgiải thoát.

Vua Tần Bà Sa La nghe tin mới tìm đến gặp thái tử, ông sẵn sàng chia nửa giang sơn để cùng Ngài giúp dân chúngan cư lạc nghiệpThái tử vốn không màng đến danh lợiquyền quý cao sang nên đã nói, “tôi đã bỏ hết tất cả cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh để ra đi tìm cầu chân lý mong ngày thành tựu đạo quả bồ đề, để cứu độ tất cảchúng sinh, xin bệ hạ thông cảm và lượng thứ dùm cho”.

Biết không thể nào thuyết phục được thái tửvua Tần Bà Sa La nói, “khi nào Ngài thành đạo, xin Ngài nhớ về độ tôi cùng gia quyến!” Sau khi thành đạo dưới cội bồ đềtrước tiên Phật độ 5 anh em Kiều Trần Nhưkế tiếp Ngài độ 3 anh em Ca Diếp, sau đó Ngài về thành Vương Xá độ vua Tần Bà Sa La và quyến thuộc.

Từ khi vua Tần Bà Sa La tiếp nhận giáo pháp của Như Lai, ngài không còn thiết tha việc triều chính nữa mà chỉ vìthái tử còn quá nhỏ. Biết A Xà Thế có dã tâm muốn cướp đoạt ngôi vua Ngài cũng không buồn lòng.

Đọc lịch sử chúng ta hiếm thấy có vị vua nào được như vậy, vinh hoa phú quý sờ sờ trước mắt nhưng Ngài vẫnkhông đắm nhiễm, chỉ coi ngai vàng như dép rách, một lòng giữ đạo chân chính, không phiền muộn, oán than một điều gì. Chúng ta chẳng có gì để buông mà cứ dính mắc hoài, thật là hết sức hổ thẹn cho hàng hậu học sau này!

Giáo dục gia đình là nền tảng quan trọng để tiếp cận cộng đồng xã hộiCha mẹ là vị thầy đầu tiên của con cái xưa nay. Mẹ thì mang nặng đẻ đau, cha thì cung phụngnuôi dưỡng, mong con sau này khôn lớn tiếp tục kế thừa truyền thống tốt đẹp của gia đình.

Vua A Xà Thế vì quá tham tàn, bạo ngược nên đã đành đoạn giết cha một cách tàn nhẫn, đến khi đứa con đầu lòngchào đời ông mới biết trân quý tình cha con; dù rất ăn nănhối hận cũng đã muộn, có làm cha mới quý tình phụ tử, mới cảm thông nỗi lòng cha mẹ đối với con cái.

Còn cha gót đỏ như son
Đến khi cha chết gót con đen sì.

Nếu vua A Xà Thế không vì một phút si mê dại dột thì giờ đây không hạnh phúc nào bằng, khi có người cha làm thái thượng hoàng hướng dẫn cho mình những kinh nghiệm quý báu để ích nước lợi dân, đỡ phải hao công tốn sức nhiều.

Câu chuyện trên răn dạy một bài học nhớ đời về cách đối nhân xử thế sao cho phù hợp đạo lý làm con đối với cha mẹ, nếu luận về tội thì không tội nào nặng bằng tội giết cha, dù bị đọa đày suốt đời suốt kiếp cũng chưa gội rửa hết.

Chính vì vậy mà vua A Xà Thế lúc nào cũng bị ám ảnh dày vò khi nhớ tới vua cha chết dần chết mòn trong lao tù ngục tối. Trong cơn sầu đau não nềquả báo xảy đến làm toàn thân ông đầy ghẻ lở.

Các danh y nổi tiếng cả nước được dời đến chữa trị nhưng tất cả đều bó tay xin chào thua. Trong cơn đautưởng chừng như tuyệt vọng, ông than thở cùng bà Vi Đề Hy, “con nay thân tâm đều khốn khổ, phụ hoàng hiền lươngđức độ mà con đành lòng giết hại.

Con từng nghe nói tội giết cha là một trong 5 tội lớn sẽ bị đọa địa ngục và chịu nhiều thống khổ liên tục…”; vìnghĩ như vậy nên vua A Xà Thế lúc nào cũng bi lụy, sầu khổ vì nỗi ám ảnh giết cha.

Sau nhờ quan ngự y Kỳ Bà khuyên nhủ, “bệnh tình của bệ hạ chỉ có đức Phật mới có thể cứu khỏi. Thần xin cam kết lấy thân mạng mình bảo đảm điều này. Đức Phật là bậc giác ngộ hoàn toàn giải thoát, Ngài lúc nào cũng từ-bi-hỷ-xả, khoan dung và độ lượng. Bệ hạ nên nghe theo lời hạ thần, trong tối nay phải đến nhờ Phật cứu chữa”.

Vua sợ quá nói, “Kỳ Bà, ông có điên không? Ông không nhớ sao, lúc trước ta đã cho sa môn Đề Bà Đạt Đa mượn voi say để giết Phật, ta còn mặt mũi nào đến nhờ Ngài chữa trị? Phật làm sao có thể tha thứ cho ta được.”

Kỳ Bà nói: “Không sao đâu, bệ hạ cứ yên tâm, Ngài là bậc giác ngộ hoàn toàn có một không hai trên thế gian này, vì thế Ngài mới chinh phục được ba anh em Ca Diếp nổi tiếng nhất thành Vương Xá, ngay đến hai nhà Bà La Mônthông thái như Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cũng đầu phục làm đệ tử Ngài. Hung tợn như tên tướng cướp Ương Quật Ma La một thời làm náo lọan đất nước Kiều Tát La, từng giết hại hàng ngàn người không gớm tay mà giờ đây cũng quy y đầu Phật”.

Vua A Xà Thế mới hỏi: “có phải tên giết người chặt ngón tay làm xâu chuỗi để đeo không?” “Dạ muôn tâu bệ hạ, đúng thật là như thế! Tên cùng hung cực ác như Ương Quật Ma La cũng nhờ Phật nhiếp phục, sau khi hồi đầu do siêng năng tinh tấn tu hành nên đã chứng quả A La Hán, huống hồ là bậc anh tài như bệ hạ”.

Ngay đêm ấy, vua cùng Kỳ Bà đến chùa Kỳ Viên, Phật biết trước nên ra cổng đón, “thưa đại vương, ngài đến chùa trong đêm khuya thế này chắc có việc gì quan trọng?”

Vua A Xà Thế nghe Phật nói vậy mới cảm động và khâm phục trước tấm lòng bao dung của Ngài, quả thật lời quanKỳ Bà nói không sai, nghĩ vậy hồi lâu vua mới lấy lại bình tĩnh và thú thật, “con chính là vua A Xà Thế trị vì đất nướcMa Kiệt Đà thành Vương Xá, con đã lỡ lầm giết chết người cha vô cùng hiền lươngđức độ, vì thế ngày nay thân tâm con đều đau khổ tột cùng.

Con kính mong Phật mở lượng hải hà một lòng từ bi thương xót giúp con vượt qua tội lỗi. Từ ngày phụ hoàng mất đi, con chưa một giây phút nào được thảnh thơi, lúc nào con cũng thấy hình bóng phụ hoàng rên la thảm thiết”.

Phật nói: “này đại vương nên biết, trên đời có 2 hạng người có thể đạt được hạnh phúc chân thật. Hạng người thứ nhất từ nhỏ đến lớn chưa từng làm điều xấc ác, lại hay giúp người cứu vật. Hạng người thứ hai đã từng gây tạo tội lỗi mà biết ăn năn hối cải, sám hối hứa chừa bỏ không tái phạm. Cả hai đều có khả năng giác ngộ như nhau.”

“Vua A Xà Thế mới phân trần nhưng con đã phạm tội giết cha.” “Đành rằng nhân quả không sai, gieo gió ắt gặt bão, giết người phải đền mạng, nhân quả lúc nào cũng công bằng khi đủ nhân duyên sẽ cho ra kết quả. Nhưng nói như vậy, vô tình cái gì cũng trở thành cố định hết thì trên đời này đâu có ai còn tu được nữa, thành ra người ác sẽ ác mãi, không thể làm mới lại chính mình.

Nếu đại vương cứ một bề hối tiếcmặc cảm thì rốt cuộc không làm gì được cả mà còn làm cho thân tâm này bi lụy.” “Vậy Thế Tôn có thể giúp cho con sám hối lại lỗi lầm bằng cách nào?”

“Người đã chết không bao giờ sống lại được, nếu đại vương cứ ưu sầuthương xót thì cũng không lợi ích gì, chi bằng hiện tại đại vương phát nguyện sám hốidứt khoát không làm các điều ác mà hay làm các điều lành, giúp dân chúng an cư lạc nghiệp, ổn định đời sống dài lâu, luôn thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ mọi người trên tinh thần vô ngãvị tha, lấy tình thương chuyển hóa hận thù, luôn từ biđộ lượngbao dung và tha thứ”.

Sau khi được Đức Phật khai thị, vua A Xà Thế đã bình tâm, hoàn hồn, không còn ưu sầu nữa và liền phát nguyệnquy y Tam bảo, nương tựa 3 ngôi báu Phật-Pháp-Tăng, đời đời kiếp kiếp khuyên mọi người gìn giữ 5 điều đạo đứcvà làm 10 việc thiện.

Vua A Xà Thế từ khi tiếp nhận giáo pháp của Như Lai tâm tình trở nên cởi mởquyết tâm gầy dựng lại cuộc đời theolời Phật dạy, lấy tình thương xóa bỏ hận thùxây dựng cuộc sống dân giàu nước mạnh trên tinh thần từ-bi-hỷ-xả, coi thần dân như con đẻ của mình.

Nhờ vậy, trong triều đại vua A Xà Thế đã làm được những việc không thể ngờ. Một ông vua ngang tàng, bạo ngược, nhờ gặp đức Phật mà thay tâm đổi tánh, từ một người giết cha để cướp đọat ngôi vua trở thành một vị vua nhân từ,đức độ, hướng dẫn mọi người sống theo lời Phật dạy trên tinh thần đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau.

Kinh A Xà Thế là một triết lý sâu sắc về tình người mà đức Thế tôn đã giáo hóa cho những ông vua, bà hoàng trongthời đại phong kiến. Rất nhiều vị vua đã quy hướng về Tam Bảo như vua Tần Bà Sa Lavua Ba Tư Nặc và kẻ đã từng âm mưu cùng Đề Bà Đạt Đa hại Phật để thống trị thiên hạTuy nhiên Phật vẫn mở rộng bàn tay để độ vua A Xà Thế vì đức Thế tôn không thấy ai là kẻ thù mà chỉ có người chưa thông cảm.

Trong bài kinh có hai vế mà người hậu học chúng ta đáng quan tâm và suy gẫm, nhân vật chính mà đức Phật muốngiáo hóa kẻ tội đồ giết cha là Vua A Xà Thế ngay nơi cuộc đời này, bằng những hành động thiết thực có lợi ích cho mình và nhiều người khác.

Nhân vật phụ là bà Vi Đề Hy là những người có thể thừa hưởng ân sủng tối cao muốn gì được nấy với cương vị là Hoàng thái hậu. Ngược lại, bà rất đau khổ tột cùng khi vua Tần Bà Sa La là chồng bà bị đứa con ngỗ nghịch giam vào ngục tối và không cho ăn uống gì để bị chết dần mòn thể xác lẫn tinh thần.

Bà tìm đủ mọi cách để đem thức ăn vào cho chồng nhưng đều bị A Xà Thế phát giác và cấm đoán nghiêm ngặt. Đứng vào hoàn cảnh của bà trong thời điểm hiện tại, bà cảm thấy đau khổ vô cùng tận, chính vì nỗi khổ niềm đau này mà bà khởi lên tư tưởng trên đời này có còn cõi nào không bao giớ có đau khổ?

Phật biết được tâm ý của bà nên phương tiện giúp cho bà bớt khổ bằng cách nói có một cõi Cực lạc do Phật A Mi Đà làm chủ với bảy báo trang nghiêm, toàn là bậc thượng thiện nhân cư trú, nhờ vậy bà bớt khổ được vui trong kiếp sống hiện tại.

Bà Vi Đề Hy là một hoàng hậu với đầy đủ kẻ hầu, người hạ muốn gì được nấy là chỗ thiên hạ ai cũng mong muốn. Ấy thế mà, cuộc sống của bà rơi vào hoàn cảnh éo le, thật là khổ não bởi đứa con tham tàn bạo ngược. Thân thì sống trong cung vàng điện ngọc nhưng tâm bà vô cùng đau đớn và tuyệt vọng, nỗi khổ niềm đau thương chồng vì bị đứa con bức tử hành hạ thân xác trong từng phút giây. Người làm cho bà đau khổ đến tột cùng là đứa con traiduy nhất do mình đẻ ra, bà cảm thấy chơi vơi lạc loài với tâm trạng

Vua A Xà Thế trong quá trình văn tư tu ứng dụng năm giớimười điều lành cho mình và người khác

Đạo Phật dạy người tu hành chân chính bắt đầu từ văn, tư và tu, gọi là tam học. Văn có nghĩa là học hỏi từ sách vở hoặc nghe quý thầy giảng dạy, là những người nghe giáo lý để tu họcChúng ta khi nghe giảng dạy về nhân quả, khi nghiên cứu, khi thảo luận và thưa hỏi, tức là ta đang thực tập về văn học.

Khi nghe, chúng ta phải có thái độ cởi mở, phải thao thức muốn hiểu biết rõ ràng và muốn được thực hành những lời hướng dẫn ấy, như thế mới gọi là người biết nghe. Còn nếu chúng ta nghe chỉ để đàm luận hơn thua, nghe để phê phán, chỉ trích người khác, nghe như vậy chỉ chất chứa thêm kiến thức mà sinh cống cao ngã mạn tự thấy mình giỏi hơn thiên hạ.

Tư có nghĩa là suy gẫmquán chiếu, nghiệm xét những điều mình được đọc lại từ các kinh sách hoặc học hỏi từ lời dạy của quý thầy. Phật dạy khi ta nghe một điều gì, dù lời dạy đó từ một vị đạo sư nổi tiếng nói ra chúng ta cũng phải xem xéttư duy, phân tích mổ xẻ một cách thấu đáo, biết rõ mục đích rõ ràng, khi ấy ta mới bắt đầu tu.

Khi nghe và tư duy về điều đó, giống như ta đã gieo hạt giống trí tuệ vào lòng, bắt đầu ta thực tập hạt giống trí tuệđó để buông xả tham lam, sân giận và si mê.

Nếu sau khi nghe rồi mà không đem ra thực tập thì việc nghe không có lợi ích gì cả, bởi gì ta chỉ nghe suông. Trong quá trình văn, tư, tu về con đường chuyển hóa nỗi khổ niềm đau do thấy biết sai lầm mà gây ra nhiều tội lỗi cho mình và người khác.

Nhờ quá trình văn, tư và tu mà chúng ta ai cũng có thể thấy rõ ràng nguyên nhân dẫn đến khổ đau luân hồi sống chết vô cùng tận, do si mê tham ái và sự chấp ngã của thân tâm này. Từ đó ta sẽ suy nghĩ, nói năng và hành động của ta không làm tổn thương đến người và vật.

Vua A Xà Thế khi nghe lời Phật dạy đã biết tư duy, nghiệm xét về những lời dạy đó và thành tâm sám hối ăn năn, quy hướng về Tam bảo với lòng thành của mình mà phát nguyện sống đời đạo đức và giúp cho dân chúng an cư lạc nghiệp bằng mười điều lành.

Mục đích chính của bản kinh là giáo dục nhân quả cho con người có đủ niềm tin bằng sự hiểu biết của chính mình, thông qua phương pháp văn, tư, tu nghe rồi suy gẫm tư duy và áp dụng tu tập để dứt trừ phiền não khổ đau.

Nhờ vậy mà đức Phật mới độ được ông Vua A Xà Thế, đầu tiên là nhờ nghe lời khuyên của Kỳ Bà thuyết phục đến gặp đức Thế tôn, sau đó được sự chỉ dạy của Ngài mà sau này trở thành vị vua Phật tử, có rất nhiều đóng góp lớn lao trong công cuộc hoằng truyền chánh pháp “tốt đạo đẹp đời”.

Ngài là vị vua đầu tiên đứng ra bảo trì kết tập Kinh điển Phật giáo lần thứ nhất tại núi Kỳ Xà Quật. Sau khi Phật viên mãn, ngài đứng ra phân chia Xá Lợi Phật cho 8 nước.

Đọc chuyện xưa để chúng ta cùng nhau suy gẫm! Một ông vua hung tàn, bạo ngược nếu không gặp Phật thì biết bao chuyện lầm than đã xảy ra cho dân chúng đất nước Kiều Tát La.

Thường những vị vua hung bạo đều có tài, nếu biết sử dụng tài đúng chỗ, đúng nơi sẽ giúp muôn dân sống an vui,hạnh phúc bằng tình người trong cuộc sống. Nếu sử dụng sai lầm sẽ làm thiên hạ khổ đau vì mộng bành trướng bá quyền, thôn tính xâm lăng, mở mang bờ cõi, gây bao tang tóc, đau thương cho nhiều người.

Vua A Xà Thế vốn là vị vua có tài, nhờ Phật chuyển hóa mà nhận ra sai lầm, biết sám hốiăn năn, làm mới lại chính mình, làm lại cuộc đời. Bằng những việc làm thiết thực Ngài đã giúp dân an cư lạc nghiệp theo tinh thần Phật dạy, biết quy hướng Tam bảotrọn đời gìn giữ 5 điều đạo đức, sống gương mẫu, biết hy sinh vì mọi người, lấy niềm vuithiên hạ làm niềm vui chính mình.

Nhà vua thường khuyên mọi người hạn chế tối đa việc giết hại chúng sinh và hay phóng sinh cứu người cứu vật, luôn sống chân thật, không dùng quyền hạn để bóc lột của người hay cướp giật của kẻ khác, khuyên người bố thícúng dường, cung kính hiếu dưỡng ông bà cha mẹ và các bậc trưởng thượng, giúp đỡ chia sẻ khi gặp người bất hạnh, không ủng hộ quan điểm chồng chúa vợ tôi, khuyên bảo mọi người sống chung thủy một vợ một chồng, không nói dối hại người và luôn nói lời chân thật, không dùng rượu quá chén hay vui chơi quá đáng mà tác hại đếnđời sống con người.

Vua nhờ tiếp nhận giáo pháp của Như Lai nên một đời giúp dân chúng an cư lạc nghiệp theo tinh thần Phật dạy, đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau vì lợi ích chúng sinh bằng tình người trong cuộc sống.
Ý kiến bạn đọc
25 Tháng Tám 201712:10
Khách
Tôi xin mạo muội bổ túc bài nầy chút ít. Trong bài có câu: "Phật biết trước nên ra cổng đón “thưa đại vương, ngài đến chùa trong đêm khuya thế này chắc có việc gì quan trọng?” ". Phật là thầy của chư thiên và nhân loại, Phật không hạ mình ra đón vua đâu. Vua A-xà-thế tới khuôn viên chùa, thấy im phăng phắc, vua hoảng sợ hỏi người cận vệ:"Có phải ngươi dối gạt ta, dụ ta tới đây để ám sát ta không ?". Quan cận vệ thưa không. Đi tới gần hơn nữa, vua A-xà-thế kinh ngạc thấy Phật và chư tăng đang ngồi thền im lặng. Đông đảo chư tăng như vậy mà không một tiếng động.. Vua A-xà-thế đảnh lễ Phật. Phật thuyết pháp cho vua nghe. Khi vua ra về, Phật nói với chư tăng:"Nếu không phạm tội ngũ nghịch thì ngay sau bài pháp nầy vua đã đắc Tu-đà-huờn". Vua A-xà-thế hiện giờ còn ở địa ngục Vô Gián
21 Tháng Bảy 201716:30
Khách
Nam mô A Di Đà Phật!
24 Tháng Sáu 201706:23
Khách
Nam Mô A di Dà Phật , Đệ tử Thiện tài chân thành cảm ơn Hoa Vô ưu đã cho đăng Bài Học vô cùng quý báu này . Kính chúc các Sư Thấy và sư cô , cùng Ban Quản trị Hoa Vô ưu luôn thân tâm khỏe mạnh và Cát Tường Như Ý !
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 20951)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 23250)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 18799)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 15328)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 46471)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 15206)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 42445)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 12997)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 33048)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 51047)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 6522)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 13041)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 29180)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 34228)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 23437)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 30196)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 29889)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 32521)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 10491)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 58310)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 14071)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 11295)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 30839)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25145)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22644)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 32971)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 17600)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 41966)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45496)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 31948)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11230)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 27192)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17612)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 12145)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 28953)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28084)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 22587)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 17246)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11807)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34565)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 26213)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 28972)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 13101)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 28781)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 18575)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 46121)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 13727)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 29856)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 22654)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 12443)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 37101)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 36744)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant