Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tìm Hiểu Giáo Nghĩa Tịnh Độ Chân Tông Nhật Bản

17 Tháng Mười Hai 202120:06(Xem: 2157)
Tìm Hiểu Giáo Nghĩa Tịnh Độ Chân Tông Nhật Bản
Tìm Hiểu Giáo Nghĩa Tịnh Độ Chân Tông Nhật Bản  

Định Huệ dịch Việt

(Trích Nhật Bản Phật Giáo Sử của Dương Tăng Văn)


nhan sinh nhu mong


Hệ thống giáo nghĩa Chân tông được kiến lập qua tác phẩm chủ yếu của Ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng (Đại Chánh Tạng tập 83). Các trứ tác sau này của Ngài chỉ là bổ sung và phát triển quan điểm này từ các phương diện khác. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu kết cấu toàn thể hệ thống giáo nghĩa Chân tông và các đặc điểm của nó.

Tịnh độ Chân tông vốn là Tịnh độ giáo đối ứng với “Các giáo thuộc Thánh đạo”, thật ra là chỉ cho Tịnh độ tông của Ngài Nguyên Không (1133-1212). Về sau nó được dùng chỉ riêng cho tông phái Tịnh độ do Ngài Thân Loan sáng lập. Tịnh độ Chân tông Nhật Bản thường được gọi tắt là Chân tông, nhân vì đề xướngChỉ nhất hướng chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ”, trên lịch sử cũng đã từng được gọi là Nhất Hướng Tông. Do vì Ngài Thân Loan gọi tín đồ là “Ngự môn đồ chúng” nên cũng gọi là Môn Đồ tông. Đến thời cận đại (1872) mới chính thức gọi là Tịnh độ Chân tông.
 
Trong tác phẩmGiáo Hành Tín Chứng”, Ngài Thân Loan từ bốn phương diện Giáo, Hành, Tín, Chứng đã kiến lập hệ thống giáo nghĩa của Tịnh độ Chân tông.
 
Giáo 
Tức là giáo pháp, thực ra là chỉ kinh điển chủ yếu dùng để y cứ, cho rằng chỉ có Kinh Vô Lượng Thọ (gọi tắt là Đại Kinh) mới là giáo chân thật của Phật, nghĩa là: “Đức Phật Thích Ca xuất hiệnthế gian tuyên dương giáo pháp cứu vớt quần sinh, là tông thú của kinh, tức là lấy danh hiệu Phật làm tông chỉ của kinh” (quyển 1). “Bản nguyện Như Lai” nói ở đây tức là nguyện thứ 18 trong 48 lời nguyện của Phật A Di Đà trước khi thành Phật.
 
Nguyện thứ 18: “Nếu tôi thành Phật, chúng sinh ở khắp mười phương chí tâm tin ưa muốn sinh về nước tôi, thậm chí mười niệm, nếu chẳng được sinh thì tôi không thành Chánh giác”. Nguyện này được gọi tắt là “Nguyện niệm Phật vãng sinh”. Trong tác phẩm Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập, Ngài Nguyên Không luận chứng nguyện này là “vãng sinh bản nguyện”. Nói “niệm Phật” tức là niệm danh hiệuNam mô A Di Đà Phật”. Ngài Thân Loan cho đây là tông chỉ của kinh này.
 
Ngài Không Nguyên lấy “ba kinh, một luận”(1) làm kinh điển y cứ chính. Ngài Thân Loan tuy kế thừa quan điểmNiệm Phật vãng sinh bản nguyện” của Ngài Nguyên Không đối với Di Đà, nhưng chỉ lấy Kinh Vô Lượng Thọ làm kinh điển y cứ chính, ở dưới tên kinh này đặc biệt ghi chú “Giáo pháp chân thật, Tịnh độ Chân tông”.
 
Hành
Tức là tu hành, thực ra là chỉ cho nội dung tu hành, tức xưng niệm danh hiệuNam mô A Di Đà Phật”. Ngài Thân Loan nói: “Xưng danh hiệu Vô Ngại Quang Như Lai (tức A Di Đà Phật). Hạnh này nhiếp hết thảy các thiện pháp, đủ các cội gốc công đức, rất mau viên mãn  công đức nhất thật chân như quý báu mênh mông như biển cả, nên gọi là đại hạnh” (quyển 2).
 
Xưng danh niệm Phậtcăn cứ vào điều nguyện thứ 17 trong Kinh Vô Lượng Thọ: “Lúc tôi thành Phật, vô lượng chư Phật ở thế giới khắp mười phương nếu chẳng ngợi khen danh hiệu của tôi thì tôi không ở ngôi Chánh giác”. Ngài Thân Loan gọi nguyện này là “nguyện chư Phật xưng dương”, “nguyện chư Phật ngợi khen”, “nguyện tuyển trạch xưng danh”.
 
Chúng sinh niệm danh hiệu Phật có thể đoạn trừ tất cả vô minhsinh tử phiền não, thỏa mãn tất cả nguyện vọng. “Xưng danhchánh nghiệp tối thắng tối diệu. Chánh nghiệp đó là niệm Phật”, “Một niệm tức là một tiếng, một tiếng tức là một niệm, một niệm tức là một hạnh, một hạnh tức là chánh hạnh, chánh hạnh tức là chánh nghiệp, chánh nghiệp tức là chánh niệm, chánh niệm tức là niệm Phật, là Nam mô A Di Đà Phật” (quyển 2). Đây là lấy miệng xưng cùng tâm niệm đồng thời khởi, dù chỉ trong tâm tưởng đến danh hiệu Di Đà cũng kể là niệm Phật.
 
Trong Tịnh Độ Văn Loại Tụ Sao giảng càng rõ hơn: “Một tiếng tức là xưng niệm, xưng niệm tức là ức niệm, ức niệm tức là chánh niệm, chánh niệm tức là chánh nghiệp”. Do Phật A Di Đàbản nguyện nhiếp thủ tất cả chúng sinh niệm Phật vãng sinh Tịnh độ Cực lạc, cho nên “Thánh nhân lớn nhỏ, người ác nặng nhẹ” đều có thể nhờ “sức bản nguyện” của Phật mà thông qua niệm Phật vãng sinh Tịnh độ, “niệm Phật thành Phật”. Ngài nói: “Tha lựcnguyện lực của Như Lai” (quyển 2).
 
Tự giải tự ngộ, tự tu công đức đều là “tự lực”, Ngài cho rằng thời đại mạt pháp phải nhờ vào tha lực của Phật Di Đà mới có thể vãng sinh giải thoát. Điều này tuy là chủ trương nhất quán của Tịnh độ giáo, nhưng Ngài Thân Loan càng nhấn mạnh đến tín tâm tuyệt đối vào tha lực của bản nguyện A Di Đà. Trên cơ sở đầy đủ tín tâm này lại tu chánh niệm, chánh hạnh niệm Phật thì nhất định được vãng sinh, thành Phật, đó là “chóng đến cõi nước quang minh vô lượng, chứng đại bát Niết bàn” (quyển 2).
 
Tín 
Là chỉ cho tín tâm tuyệt đối với điều nguyện thứ 18 (Vãng sinh bản nguyện) của Phật A Di Đà trong Kinh Vô Lượng Thọ. Điều nguyện này của Phật A Di Đà là “tuyển trạch bản nguyện”, cũng gọi là “nguyện chí tâm tín nhạo”, “nguyện vãng tướng tín tâm”, đây là một điều nguyện quan trọng nhất trong 48 lời nguyện của Phật A Di Đà. Tin Phật một cách chí thành vô hạn, vui mừng phát nguyện sinh về Tịnh độ Cực lạcTây Phương, tín tâm này tương thông với bản nguyện của Phật A Di Đà, nhờ đó có thể nhờ vào tha lực của Phật mà vãng sinh Tịnh độ, chứng đại Niết bàn.

Vì thế, gọi tín tâm này là “đại tín tâm”, là “phương thuốc trường sinh bất lão”, là “nghệ thuật xảo diệu hân tịnh yếm uế”, là “trực tâm tuyển trạch hồi hướng”, là “tín nhạo lợi tha sâu rộng”, là “chân tâm kim cương bất hoại”, là “tịnh tín dễ vãng sinh mà không có người tu”…, là “con đường tắt thế gian khó tin”, là “nhân chân chánh chứng đại bát Niết bàn” (quyển 3).
 
Về quan hệ Tín và Hành, Ngài nói: “Tín tâm chân thật ắt có đủ danh hiệu, danh hiệu chưa chắc có đủ tín tâm vào nguyện lực” (quyển 3), ý nói có tín tâm đối với Tịnh độnguyện lực của Phật A Di Đà thì cũng là có đủ hạnh xưng niệm danh hiệu A Di Đà. Nhưng chỉ niệm danh hiệu, không nhất định là có tín tâm này. Vả lại, tu hạnh xưng danh niệm Phật chỉ là một cách sinh ra tín tâm, thông qua xưng niệm danh hiệu có thể sinh ra tín tâm tuyệt đối đối với nguyện lực của Phật A Di Đà.
 
Ngài Thân Loan dẫn Kinh Vô Lượng Thọ: “Các chúng sinh nghe danh hiệu Phật A Di Đà tín tâm hoan hỷ”. Giải thích: “Chúng sinh nghe bản nguyện của Phật sinh khởi lòng tin trước sau không nghi, ấy gọi là nghe. Tín tâm nghĩa là tín tâm hồi hướng bản nguyện lực” (quyển 3). Đây là do nghe nói đến nguyên nhân Phật A Di Đà phát nguyện thì sẽ tin sâu chẳng nghi đối với “bản nguyện lực” của Phật A Di Đà, nhờ đó mà có đủ tín tâm đối với tha lực Di Đà. Ngài cho rằng cái nhân vãng sinh Tịnh độ không phải là hạnh xưng niệm danh hiệu Phật mà chính là tín tâm, là tín cho nên nói: “Tín tâm là không hai tâm, nên nói là nhất niệm, cũng gọi là nhất tâm, nhất tâm là nhân chân thật của báo độ thanh tịnh”.
 
"Một niệm vãng sinh tức là chuyên tâm. Chuyên tâm tức là thâm tâm. Thâm tâm tức là thâm tín. Thâm tín tức là kiên cố thâm tín. Kiên cố thâm tín tức là quyết định tâm. Quyết định tâm tức là vô thượng tâm. Vô thượng tâm tức là chân tâm. Chân tâm tức là tương tục tâm. Tương tục tâm tức là thuần tâm. Thuần tâm tức là ức niệm. Ức niệm tức là chân thật nhất tâm. Chân thật nhất tâm tức là đại khánh hỷ tâm. Đại khánh hỷ tâm tức là chân thật tín tâm.
 
Chân thật tín tâm tức là kim cương tâm. Kim cương tâm tức là tâm nguyện làm Phật. Tâm nguyện làm Phật tức là tâm độ chúng sinh. Tâm độ chúng sinh tức là tâm nhiếp thủ chúng sinh sinh về Tịnh độ An lạc. Tâm này tức tâm đại Bồ đề. Tâm này là tâm đại từ bi. Tâm này do trí huệ quang minh vô lượng sinh, cho nên nguyện hải bình đẳng. Nguyện hải bình đẳng nên phát tâm bình đẳng. Phát tâm bình đẳng nên đạo bình đẳng. Đạo bình đẳng nên đại từ bi bình đẳng. Đại từ bi bình đẳng là chánh nhân thành Phật” (quyển 3).
 
Một niệm muốn vãng sinh Tịnh độ Di Đà chính là “chân thật tín tâm” của sự vãng sinh, chính là “tâm nguyện làm Phật”…, là “chánh nhân thành Phật”. Một niệm có tính quyết định tức là “nhất niệm tịnh tín”, là nguyên nhân căn bản của sự vãng sinhthành Phật. Về sau, trong nội bộ Chân tông gọi đó là “tín tâm là gốc”.
 
Ngài Thân Loan còn chủ trương, sau khi một người đã xây dựng được tín tâm đối với nguyện lực Di Đà vẫn phải xưng niệm danh hiệu Di Đà. Sự xưng niệm này tuy chẳng phải là chánh nhân đưa đến vãng sinh Tịnh độ, nhưng là biểu thị sự báo đáp ân Phật, nên Ngài nói: “Cần phải thường xuyên xưng niệm danh hiệu Như Lai để báo đáp ân từ bi hoằng thệ của Phật A Di Đà” (quyển 2).
 
Chứng 
Tức là kết quả tu hành, là cảnh giới đạt đến. Ngài nói, bất cứ người nào “không phân biệt sang hèn, tăng tục, nam nữ, già trẻ, không luận tạo tội nhiều ít, tu hành bao lâu” (quyển 3), chỉ cần có đủ tín tâm tuyệt đối với Tịnh độnguyện lực của Phật A Di Đà, sau khi chết liền được “nhập vào hàng ngũ Đại thừa chánh định tụ (tức là đạt đến địa vị Bất thoái chuyển của Bồ Tát).
 
Vì trụ chánh định tụ ắt đến diệt độ. Ắt đến diệt độ tức là thường lạc. Thường lạc tức là tất cánh tịch diệt. Tịch diệt tức vô thượng Niết bàn. Vô thượng Niết bàn tức pháp thân vô vi (quyển 4). Tịnh độ An lạc là “Vô lượng quang minh độ”, “chân báo Phật độ” (quyển 5). Vãng sinh Tịnh độ tức là đạt đến triệt để giải thoát thành Phật. Ngài Thân Loan minh xác chủ trương vãng sinh tức là thành Phật.
 
Ngài Thân Loan cho rằng Kinh Quán Vô Lượng Thọ (Quán Kinh, Ngài gọi là “Yếu môn”) và Kinh A Di Đà (Tiểu Kinh, Ngài gọi là “Chân môn”) đều là Tịnh độ giáo thuộc “phương tiện”, “tự lực giả môn”. Chỉ có Kinh Vô Lượng Thọ mới là giáo chân thật tuyên thuyết bản nguyện tha lực Di Đà. Nhưng Ngài lại nói: “Ba kinh đều do đức Phật Thích Ca tự thuyết”, “đều lấy kim cương tâm, chân tâm làm trọng yếu.
 
Chân tâm tức là đại tín tâm”, “đại cương của ba kinh này tuy có nghĩa hiển bày và nghĩa ẩn mật, nhưng cũng đều nói tín tâm là động cơ thể nhập” (quyển 6). Ba kinh đều nhất trí khuyên chúng sinh niệm Phật và đều dạy dùng tín tâm để vãng sinh Tịnh độ. Vì thế dù đối với Quán Kinh hay Tiểu Kinh cũng cần phải thấu qua văn tựnhận thức chân ý ẩn tàng trong đó để kiến lập tín tâm tuyệt đối với nguyện lực Di Đà.
 
Năm 1255, Ngài Thân Loan, sau khi trở về kinh đô, trứ tác Ngu Ngốc Sao 2 quyển, Trong tác phẩm này, ngài đề xuất lý luận phán giáo của mình, tức là phân loại bình luận toàn bộ Phật pháp. Ngài đem Phật pháp chia thành hai giáo: Đại thừaTiểu thừa. Lại chia Đại thừa làm Nan hành đạo (tức là tự lực Thánh đạo môn) và Dị hành đạo (tức là tha lực Tịnh độ môn). Tự lực Thánh đạo môn được chia làm Tiệm giáoĐốn giáo, Ngài lại dùng các từ vựng “Thụ”, “Hoành”, “Thụ xuất”, "Thụ siêu”, “Hoành xuất”, “Hoành siêu” để tiến hành bình luận về toàn bộ Phật pháp.
 
- Thụ là chỉ cho trình tự tu hành trước sau cạn sâu.
 
- Hoành  là không có trình tự thứ lớp.
 
- Xuất là xuất ly tam giới đạt đến giải thoát.
 
- Siêu là đạt ngay đến cảnh giới giác ngộ tối cao.
 
Ngài Thân Loan dùng “Thụđại biểu cho Thánh đạo môn, dùng “Hoànhđại biểu cho Tịnh độ môn.
 
Thụ xuất” là chỉ cho tiệm giáo trong Thánh đạo môn như Pháp Tướng tông… chủ trương “quyền giáo” phải trải qua nhiều kiếp tu hành.
 
Thụ siêu” là chỉ cho đốn giáo trong Thánh đạo môn như Hoa Nghiêm tông, Thiên Thai tông, Thiền tông … chủ trương “thật giáo” ngay nơi thân này là Phật, ngay thân này thành Phật.
 
Hoành xuất” là “tự lực phương tiện giả môn” trong tha lực Tịnh độ môn, chỉ cho giáo pháp nói phải tu thiện công đức và chín phẩm vãng sinh trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ.
 
Hoành siêu” là giáo pháp chân thật của “tuyển trạch bản nguyện” trong tha lực Tịnh độ môn, tức là giáo pháp nói về vãng sinh báo độ trong Kinh Vô Lượng Thọ.
 
Hoành xuất” là tiệm giáo trong Tịnh độ môn. “Hoành siêu” là đốn giáo trong Tịnh độ môn. Sự phán giáo này đề cao địa vị Kinh Vô Lượng Thọluận thuyết của Ngài Thân Loan về tín tâm tuyệt đối đối với tha lực Di Đà là giáo thuyết căn bản của việc vãng sinh thành Phật.
Tượng của Ngài Thân Loan - người sáng lập Tịnh độ Chân tông Nhật Bản
 
B. Tín tâm là gốc và vãng sinh thành Phật siêu việt thiện ác
 
Lý luận thiện ác báo ứng rất phổ biến trong truyền thống Phật giáo, cũng như giáo nghĩaảnh hưởng rất lớn trong dân gian. Theo lý luận này, người hành thiện tích đức đời sau sẽ được báo ứng tốt đẹp (sinh lên trời hoặc sinh vào nhà giàu sangnhân gian), kẻ làm ác tạo tội bị báo ứng xấu (sinh làm súc sinh hoặc đọa địa ngục…).
 
Trong điều kiện lịch sử đương thời, lý luận này kết hợp với luân lý của xã hội đưa đến tác dụng thưởng thiện phạt ác. Tại nội bộ Phật giáo, lý luận thiện ác báo ứnggiáo nghĩa thuộc tầng bậc thấp hướng đến số đông tín đồ bình dân
 
Ngoài ra, mỗi tông phái Tiểu thừa hoặc Đại thừa còn có một hệ thống giáo nghĩa tu hành giải thoát mang tính triết học tư biện ở tầng bậc sâu hơn. Tịnh độ tông đem các giáo pháigiáo nghĩa của Phật giáo trước đó gọi chung là Thánh đạo môntự lực”, “nan hành”, đề cao vai trò của “chuyên tu niệm Phậtvãng sinh Tịnh độ (giải thoát). Điều này tuy phủ định đối với các luận điểm sự tu hành giải thoát của Phật giáo trước kia và thiện ác báo ứng, nhưng vẫn chủ trương niệm Phật tiêu tội như đã nói: “Xưng niệm một tiếng Phật liền trừ năm trăm vạn kiếp tội”.
 
Tịnh độ Chân tông lại tiến thêm một bước cho rằng vãng sinh (tức thành Phật) không có quan hệ gì đến hành vi thiện ác, mà do tín tâm đối với nguyện lực Di Đà quyết định, nên cho rằng niệm Phật tiêu tội thuộc về “tự lực” và phủ định nó.
 
Tư tưởng của Thân Loan cho rằng tín tâm tuyệt đối đối với bản nguyện Di Đà là “nội nhân”, là “chân nhân”, là “chánh nhânvãng sinh thành Phật. Vãng sinh thành Phật đã do tín tâm quyết định vậy thì không quan hệ gì đến thiện ác của cá nhân.
 
Ngài Thân Loan nói: “Bản nguyện Di Đà không phân biệt người già, trẻ, kẻ thiện, ác. Phải biết tín tâm là cội gốc. Mục đích của bản nguyện Di Đà là cứu vớt chúng sinh tội ác sâu nặng, phiền não lẫy lừng. Nếu như tin bản nguyện Phật thì không cần thiện hạnh khác. Không có thiện hạnh nào hơn niệm Phật. Chẳng cần sợ ác hạnh, vì nó không ngăn ngại được bản nguyện Di Đà, làm trở ngại chúng sinh ác hạnh vãng sinh” (Thán Dị Sao). “Người phát được nhất niệm hỷ ái tâm (tức là tâm niệm nguyện vãng sinh Tịnh độ) chẳng đoạn phiền não mà đắc Niết bàn”. (Giáo Hành Tín Chứng, quyển 2). “Bất luận người chết dù thiện hay ác, hễ có tín tâm quyết định thì người ấy ắt trụ chánh định tụ” (nghĩa là trụ Bất thoái chuyển, Ngài Thân Loan giải là “tương đương với Phật vị”) (Mạt Đăng Sao).
 
Ngài Thân Loan chủ trương tín tâm vãng sinh, nói cho cùng cũng là do Di Đà ban cho, vì tương thông với bản nguyện Di Đà nên có sức bất tư nghì. Người có đủ tín tâm này, sau khi chết thần thức có thể “hoành siêu ngũ thú, bát nạn”, “tức thì nhập vào hàng ngũ Đại thừa chánh định tụ”, tức là vãng sinh thành Phật. Tín tâm này cũng một loại với bản nguyện Di Đà đã siêu việt thiện ác, chính tà của xã hội thế gian.
 
Niệm Phật được xây dựng trên cơ sở tín tâm này là “phi thiện, phi ác, phi đốn, phi tiệm, phi định, phi tán, phi chánh quán, phi tà quán, phi hữu niệm, phi vô niệm, phi bình thường, phi lâm chung, phi đa niệm, phi nhất niệm, chỉ là niềm tin chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể lường, chẳng thể nói”. (Giáo Hành Tín Chứng, quyển 3). “Niệm Phật lấy vô nghĩa làm nghĩa, chẳng thể lường, chẳng thể nói, chẳng thể nghĩ bàn” (Thán Dị Sao).
 
Ngài Thân Loan có lúc gọi pháp niệm Phật vãng sinh tin tuyệt đối vào tha lực này là “tự nhiên pháp nhĩ” (Mạt Đăng Sao). Mục đích của giáo thuyết này là để củng cố vững vàng lòng tin của chúng ta đối với Phật A Di Đà cùng bản nguyện Tịnh độ của Ngài, mà không cần phải lo nghĩ đến dĩ vãng của mình và các hành vi thiện ác từ nay về sau. Ngài Thân Loan thậm chí còn nói: “Hành giả có đủ tín tâm thì thiên thần địa kỳ kính phục, ma giới ngoại đạo chẳng thể chướng ngại, tuy có tội ác cũng chẳng thể thọ nghiệp báo”, “dẫu giết vạn người cũng có thể vãng sinh” (Thán Dị Sao). 
 
Cho rằng hành vi thiện ác là do nghiệp đời trước quyết định, làm thiện không trợ giúp cho việc vãng sinh, làm ác cũng không chướng ngại vãng sinh. Theo các tài liệu để lại ([1]) có một số tín đồ căn cứ vào lời nói này rồi “chuyên ỷ lại bản nguyện”, tuyên truyền “tạo ác vô ngại”. Ngài Thân Loan phản đối bọn người này, và Ngài nói, làm ác sẽ làm chướng ngại người khác niệm Phật, sẽ bị luật pháp của Nhà nước trừng trị và người đời phản đối, còn đối với Chân tông thì “như trùng trên thân sư tử trở lại ăn thịt sư tử”.
 
Ngài Thân Loan chú trọng vào tín ngưỡng tuyệt đối với tha lực bản nguyện Di Đà, nên xếp pháp tu “niệm Phật tiêu tội” vào loại tu hànhtự lực”, cũng là biểu thị sự phản đối của Thân Loan đối với quan điểmniệm một tiếng Phật tiêu tán mười ức kiếp tội nặng”. Ngài cho rằng quan điểm này không làm cho chúng ta kiến lập được tín tâm vãng sinh, nên vẫn thuộc về tin “tâm của tự lực”, chứ “chẳng phải tín tâm của tha lực”.
 
Ngài nói nếu như tin ở bản nguyệnnhiếp thủ chẳng bỏ” của Di Đà, thì dù cho “phạm nhiều tội nghiệp lúc lâm chung không niệm Phật cũng có thể cấp tốc vãng sinh”. Ngài còn nói, người đã có tín tâm đối với bản nguyện Di Đàmột đời niệm Phật chỉ vì báo ân Như Lai, cảm tạ ân đức Như Lai”. Từ quan điểm này, chúng ta có thể thấy sự khác biệt của Chân tôngTịnh độ tông của Ngài Nguyên Không chủ trương “niệm Phật càng nhiều càng tốt”.
 
 
C. Kẻ ác là đối tượng chính của pháp môn này
 
Không luận là Tịnh độ tông Trung Quốc hay Nhật Bản đều nhấn mạnhkẻ ác” có thể thông qua niệm Phậtsau khi chết vãng sinh Tịnh độ. Trong giáo thuyết của Phật giáothập thiện tương đương với các nguyên tắc luân lý thế gian, đó là: “chẳng sát sinh, chẳng tà dâm, chẳng trộm cắp, chẳng nói dối, chẳng nói lời chia rẽ, chẳng nói lời thô ác chửi rủa, chẳng nói lời ngọt ngào dụ dỗ người khác, chẳng tham dục, chẳng giận hờn, chẳng tà kiến” (không tin nhân quả và các lời Phật dạy khác), trái ngược với mười điều vừa kể trên là thập ác
Người nào làm thập thiện được gọi là “người thiện”, kẻ nào vi phạm bị gọi là “kẻ ác”.
 
Mức độ vi phạm thập thiện bất đồng nên mức độ làm ác của kẻ ác cũng khác, tội ác nặng nhất là kẻ ác phạm tộingũ nghịch”, tức là giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, hại Phật, phá hoại Tăng đoàn. Kẻ mà Tịnh độ tông gọi là “phàm phu tội ác sinh tử”, “nhất thiết phàm phu tạo tội” là chỉ chung cho kẻ phạm tội thập ác, ngũ nghịch, cũng gọi là “kẻ ác”. Cũng có lúc gọi riêng kẻ phạm tội ngũ nghịch là “người mang tội nặng ngũ nghịch”, “kẻ cực ác thấp hèn nhất”.
 
Tịnh độ tông chủ trương tất cả kẻ ác phạm tội nặng nhẹ đều có thể thông qua niệm Phậtdiệt tội vãng sinh Tịnh độ (Xem Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập). Tịnh độ tông nói “kẻ ác”, “phàm phu tội ácthực tế là chỉ cho những hạng người trong các tầng lớp xã hội như nông dân, ngư dân, thợ săn, võ sĩ cho đến cả giai cấp thống trị. Những hạng người này là đối tượng của Tịnh độ tông.
 
So với Tịnh độ tông, Tịnh độ Chân tông càng xem trọng truyền giáo trong quảng đại quần chúng ở hạ tầng, lấy tất cả “phàm phu”, “kẻ ác” làm đối tượng tranh thủ. Về phương diện này, thuyết “ác nhân chánh cơ” của Thân Loan rất đặc sắc. Trong Thán Dị Sao, Ngài Thân Loan nói: “Người thiện còn có thể vãng sinh hà huống kẻ ác!”. Nhưng người đời thường nói: Kẻ ác còn có thể vãng sinh hà huống người thiện. Lời nói này tuy thấy dường như hữu lý, nhưng ý thì trái với tha lực bản nguyện
 
Bởi vì người tự lực làm thiện, không có tâm nương nhờ vào tha lực, chẳng phải được nguyện lực Di Đà nhiếp thủ, nhưng nếu như đột nhiên người ấy hiểu ra và bỏ tâm tự lựcnương nhờ vào tha lực bản nguyện Di Đà thì chắc chắn vãng sinh về báo độ chân thật. Chúng ta có đủ thứ phiền não, tu hành cỡ nào cũng đều chẳng thể thoát ly sinh tử. Di Đà xót thương, bản ý phát nguyện rộng lớn của Ngài chính vì khiến kẻ ác thành Phật. Như vậy, kẻ ác tin tưởng dựa vào tha lực vốn là chánh nhân vãng sinh, cho nên nói “người thiện còn có thể vãng sinh hà huống kẻ ác”.
 
Trong Khẩu Truyền Sao quyển hạ của Giáo Như (1270-1351) có dẫn lời của Như Tín (1239-1300) giải thích câu: “Người thiện còn có thể vãng sinh hà huống kẻ ác” như sau: “Phàm phu ác là chính, phàm phu thiện là phụ. Phàm phu thiện thuộc đối tượng phụ còn có thể vãng sinh thì phàm phu ác thuộc đối tượng chính há chẳng thể vãng sinh ư? Cho nên nói: Người thiện còn có thể vãng sinh hà huống kẻ ác”.
 
Những điều trích dẫn trên có mấy tầng ý nghĩa như sau:
 
- Chân tông chủ trương “tín tâm là gốc”, hễ có tín tâm đối với tha lực bản nguyện Di Đà tất nhiên có thể vãng sinh thành Phật, bất luận là người có tín tâm ấy là người thiện hay kẻ ác.
 
- Người thiện do vì tự ỷ lại hành thiện, chứa nhóm công đức, cho rằng có thể dựa vào chính mình tu hành đạt đến giải thoát mà chẳng tin vào bản nguyện tha lực Di Đà (không có tâm nương nhờ tha lực), nên chẳng phải là đối tượng của Phật Di Đà phát nguyện cứu độ. Nếu như người ấy thay đổi, trở lại tin tha lực bản nguyện Di Đà thì cũng có thể vãng sinh thành Phật.
 
- Kẻ ác không thể dựa vào tự lực tu hành đạt đến giải thoát, duy có lòng tin chân thậtnương nhờ vào tha lực bản nguyện Di Đà, kẻ ấy mới có thể giải thoát, vì thế nên kẻ ác mới là đối tượng mà Phật Di Đà phát nguyện cần phải cứu độ.
 
- Do vì kẻ ác là đối tượng chính của việc vãng sinh, còn người thiện là đối tượng phụ, vì là người phụ thuộc, nên người thiện nếu có thể vãng sinh thì kẻ ác càng có thể vãng sinh.
 
Ý nghĩa của quan điểm lấy kẻ ác làm đối tượng chính vãng sinh là: Tịnh độ Chân tông lấy quần chúng bình dân trong xã hội bao quát nông dân, ngư dân, thợ săn, cho đến lái buôn, võ sĩ làm đối tượng, những người này trong hoạt động sản xuất nuôi, trồng, săn bắn, không thể không làm tổn thương hoặc giết hại sinh linh, vả lại đại đa số những người nghèo khổ, không có văn hóa, không có điều kiện bố thí tiền của, cất chùa, dựng tháp …, hoặc không có năng lực, không có thời gian hành thiện tu hành, theo quan điểm của truyền thống Phật giáo thì phần đông họ là “kẻ ác”. 
 
Ngài Thân Loan đặt mình vào hàng ngũ “kẻ ác”, Ngài thường tự xưng “ngu ngốc”, “cấu chướng phàm ngu”, “người mang đủ thứ phiền não”, “tội nhân” … Đây là cách Ngài tiếp cận dân chúng, cũng làm cho giáo thuyết của Ngài dễ dàng được dân chúng tiếp nhận. Ngài cũng đã từng nói với các đệ tử: Các nghề nghiệp người đời làm “ở sông biển thì giăng lưới thả câu, ở núi rừng thì săn bắn chim thú để tự nuôi sống hoặc buôn bán, làm ruộng để sinh nhai” đều là do nghiệp nhân đời trước quyết định. Các hành vi thiện ác của chúng ta đều do túc nghiệp (nghiệp nhân đời trước) quyết định, nhưng vãng sinh Tịnh độ thành Phật là do tín tâm đối với nguyện lực Di Đà quyết định. Có tín tâm này thì có thể “Chẳng đoạn phiền nãothành Phật”.
 
Ngài phê bình người truyền pháp chủ trương chỉ có người thiện mới có thể niệm Phật vãng sinh, ở tại đạo tràng dán thông cáo không cho một số người làm nghề nghiệp nào đó được vào, Ngài cho đây là “ngoài hiện tướng tinh tấn hiền thiện mà bên trong giả dối” (Thán Dị Sao). Giáo thuyết của Ngài Thân Loan đem lại hy vọng vãng sinhthành Phật cho số đông dân chúng ở tầng lớp thấp kém trong xã hội. Phương pháp tu hành lại giản đơn dễ thực hành, cho nên mau chóng có được rất đông tín đồ trong dân chúng tầng lớp dưới như nông dân, ngư dân … quy y
 
Tịnh độ tông Trung QuốcNhật Bản trước kia, tuy cũng có nói đến kẻ ác có thể vãng sinh giải thoát, nhưng do chịu sự chế ước của nguyên văn kinh điển Tịnh độ tôngquan niệm luân lý truyền thống của xã hội, ảnh hưởng của giáo nghĩa Phật giáo vốn sẵn có, nên vẫn cho rằng người thiện vãng sinh là đối tượng chánh. Trong Quán Niệm Pháp Môn, Ngài Thiện Đạo (613-681) nói: “Tất cả phàm phu tội ác còn nhờ tội diệt mà được vãng sinh, hà huống Thánh nhân (chỉ cho người tu hành đắc đạo hoặc người thiện) nguyện sinh mà không được vãng sinh ư?”.
 
Ngài Nguyên Không (1133-1212) cũng nói tương tự như thế, Hắc Cốc Thượng Nhân Ngũ Đăng Lục quyển 14 ghi: “Kẻ phạm tội thập ác ngũ nghịchtín tâm còn được vãng sinh, thì người phạm tội nhẹ do đây suy ra mà biết. Kẻ tội ác còn có thể vãng sinh hà huống người thiện!”.
 
Các Ngài lấy “Thánh nhân”, “người thiện” là đối tượng chính, làm chủ thể việc vãng sinh, kẻ ác là đối tượng phụ, là phụ thuộc. Do vì trọng điểm truyền giáo của Ngài Thân Loanquảng đại quần chúng ở hạ tầng xã hội, nên Ngài cải biến quan điểm của các Ngài Thiện Đạo, Nguyên Không, đề xuất thuyết “Kẻ ác là đối tượng chính của việc vãng sinh”. Ngoài ra, dùng giáo nghĩa này để truyền giáo cũng tự nhiêntác dụng hấp dẫn giai cấp võ sĩ lấy chinh chiến sát phạt làm sự nghiệp.
 
Tịnh độ Chân tông sau khi sáng lập liền phát triển nhanh chóng, từ thế kỷ 15 về sau trở thành một tông phái lớn mạnh có nhiều tín đồ nông dân. Do đó, trong các sách viết về lịch sử Phật giáo đều xem Tịnh độ Chân tông là một tông phái Phật giáo độc lập
 
GS. Định Huệ dịch
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21014)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 23357)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 18882)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 15378)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 46615)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 15271)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 42566)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13050)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 33133)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 51165)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 6572)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 13091)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 29284)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 34303)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 23561)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 30305)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 29991)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 32625)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 10531)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 58535)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 14150)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 11344)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 30919)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25232)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22724)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 33086)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 17650)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 42063)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45628)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32036)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11271)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 27288)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17713)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 12204)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 29081)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28209)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 22684)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 17291)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11853)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34655)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 26283)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 29037)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 13156)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 28885)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 18677)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 46276)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 13788)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 29957)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 22777)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 12494)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 37204)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 36853)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant