Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ngôi Nhà Tịnh Độ

23 Tháng Năm 202318:42(Xem: 739)
Ngôi Nhà Tịnh Độ
Ngôi Nhà Tịnh Độ

Thích Nữ Đàm Uyên

Ý Nghĩa Của Hạnh Phúc


DẪN NHẬP

Đạo Phật có 8 vạn 4 nghìn pháp môn, trong đó Tịnh Độ tông có tầm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân sinh. Pháp môn này dễ thực hành nên vô cùng phù hợp với mọi tầng lớp trong xã hội. Khi nghe đến Tịnh độ, chúng ta đều nghĩ ngay đến một cảnh giới tâm linh thuần tịnh vi diệu của mười phương chư Phật, đó là cõi nước lý tưởng mà tất cả tín đồ đều ước ao và ngưỡng vọng sinh về. Như trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ diễn tả cõi nước đó lúc nào cũng thanh sạch thơm tho, lầu gác nguy nga tráng lệ, có ao bảy báu với nước tám công đức và rất nhiều sự thù thắng khác. Chúng sinh nơi ấy dung sắc tươi đẹp không già, không chết, vô ưu – vô bệnh. Y áo vật thực thì tùy tâm thọ dụng chẳng cần phải vất vả lao nhọc để kiếm cái ăn cái mặc, lại được thường xuyên thân cận chư thiện thượng nhân là các bậc Bồ Tát bất thối. Những ai muốn sinh về cõi ấy thì phải trọn đời chuyên tâm niệm Phật, thành tựu Tín – Hạnh – Nguyện, đến lúc lâm chung sẽ được vãng sinh về thế giới Tây phương cực lạc.

Cũng có thể đặt ra hoài nghi, đạo Phật là đạo thiết thực hiện tại, lẽ nào con người phải tìm cách chối bỏ cuộc sống hiện thực, cắn răng chịu đựng khổ đau để mà Niệm Phật chờ ngày tạ thế? Tuy nhiên, giáo lý đạo Phật cùng tột cao xa dung thông sự lý đâu thể chỉ hướng dẫn con người đến một đời sống an lành sau khi chết mà lãng quên thực tại. Quan trọng hơn cả là học lời Phật dạy để cải tạo, xây dựng thế gian này thành một thế giới thanh bình, hạnh phúc như cõi Tịnh độ phương Tây. 

Vậy, thế giới Tịnh Độ đó nằm ở đâu và nguyên nhân, nhân duyên nào làm nên Tịnh độ? Tịnh độ chỉ có ở thế giới của Đức Phật hay thế giới Hoa Nghiêm hay có ở đâu nữa không? Thật ra, Tịnh độ có ở nhiều nơi, tuy nhiên Đức Phật chỉ giới thiệu  cõi Tây phương thắng cảnh để chúng sinh tin học. Vậy phương pháp, nhân duyên, phương cách chúng ta làm nên Tịnh độ hiện tiền thực sự ở tại nhân gian như ta từng nghe “Phật pháp tại thế gian bất ly thế gian giác”. Chúng ta cũng vậy, những lúc khó khăn, sống không bằng chết thì khổ nơi địa ngục cũng không sánh bằng, khi sống trong cảnh no ấm, sung sướng như thiên đường. Vậy thiên đường hay địa ngục phải chăng chính tại nhân gian hay tại nơi tâm mình?

KHÁI NIỆM VỀ TỊNH ĐỘ

Tịnh độ (S: Suddhàvàsa, Sukhāvatī; E: Pure land; C: 淨土) là cõi nước thanh tịnh, nơi an trú của Phật và Bồ tát. Trái lại, quốc độ của chúng sanh còn nhiều phiền não (tham, sân, si, tà kiến, chấp thủ,…) gọi là Uế độ. Trong phẩm Phật quốc của Kinh Duy Ma cho rằng tâm tịnh thì quốc độ tịnh, Ta bà tức Thường Tịch Quang Tịnh độ, nếu tâm chúng sanh không thanh tịnh thì cõi này trở thành nhơ xấu, còn chỗ thấy của chư Phật thanh tịnh thì trở thành vô lượng công đức trang nghiêm. Theo Sơ tổ Trần Nhân Tông – một người tiên phong chủ trương xây dựng Tịnh độ tại nhân gian: “Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây Phương. Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc” [1].

Thật ra, Tịnh độ có ở nhiều nơi, tuy nhiên Đức Phật chỉ giới thiệu cõi Tây phương thắng cảnh để chúng sinh tin học. Vậy phương pháp, nhân duyên, phương cách chúng ta làm nên Tịnh độ hiện tiền thực sự ở tại nhân gian như ta từng nghe “Phật pháp tại thế gian bất ly thế gian giác”. Chúng ta cũng vậy, những lúc khó khăn, sống không bằng chết thì khổ nơi địa ngục cũng không sánh bằng, khi sống trong cảnh no ấm, sung sướng như thiên đường. Vậy thiên đường hay địa ngục phải chăng chính tại nhân gian hay tại nơi tâm mình?

Như thế, trước tiên, chúng ta phải tha thiết xây dựng, thiết lập tư duy, mong mỏi, bản hoài trước đã. Như muốn xây nhà phải lên tích lũy tiền của, nêu ý định, thiết kế, và thi công. Xây dựng Tịnh độ cũng vậy. Sau đó chúng ta tham học trong kinh điển, lấy cách các ngài xây dựng chúng ta cũng làm và hướng thế giới của chúng ta viên mãn như thế. Phật nói thời quá khứ rất lâu, có Tỳ kheo Pháp Tạng, ngài nghe Phật hiện đời giảng pháp giới thiệu về cõi nước 10 phương, nên Tỳ kheo ấy đã phát đại nguyện đi du phương học để tìm hiểu tinh túy nhất ở các cõi nước mong hình thành cõi nước Tây Phương cực lạc và hướng dẫn chúng sinh. Việc Pháp Tạng đến các thế giới học về cách xây dựng cõi Tịnh độ của chư Phật giống như việc du học, học tinh hoa nước bạn để làm giàu kiến thức, nâng cao khả năng của mình rồi trở về cống hiến, sáng tạo, làm đẹp cho quê hương. Chúng ta sơ phát tâm cũng đi tham học các nơi để xây dựng Tịnh độ tại nhân gian. Tư tưởng xây dựng Tịnh độ tại nhân gian đã được xây dựng từ rất lâu, ngay từ thời chư Phật, chư Tổ đã hình thành. 

TƯ TƯỞNG TÌNH ĐỘ

Bên cạnh các pháp môn như Thiền, Mật thì còn có tư tưởng Tịnh độ với năm môn niệm Phật gồm công đức lễ bái, tán thán,tác nguyện, quán sát thuộc về tự lợi, đưa hành giả vào thế giới Liên Hoa Tạng thọ hưởng pháp lạc, thành tựu công đức. Công đức hồi hướng thuộc về lợi tha, Bồ Tát vào cõi Ta bà hoá độ chúng sinh, thành tựu Bồ đềcông đức. Ngoài ra trong bộ luận Vô lượng thọ kinh ưu bà đề xá của ngài Thế ThânVô lượng kinh ưu bà đề xá nguyện sinh kệ chú của ngài Đàm đề cập các thuật ngữ tự lựctha lực, làm tư tưởng cho Tịnh độ. Ngài Thế Thân cho rằng Đức Phật Di Đà chỉ là một vị Phật của ánh sáng, tư tưởng này ảnh hưởng đến tư tưởng Đàm LoanTrung Quốc cũng như Thân LoanNhật Bản. Hành giả Tịnh độ cần thực hành tín, hạnh, nguyện bằng việc trì danh niệm Phật (Tổ Đạo Xước, Tổ Thiện Đạo), quán tưởng niệm Phật (từ Tổ Huệ Viễn đến Tổ Vĩnh Minh), thật tướng niệm Phật (Tổ Trừng Quán, Tổ Tông Mật) và tham cứu niệm Phật (Tổ Châu Hoằng, Tổ Vĩnh Minh), quán tướng niệm Phật (mọi hành giả). Hành giả tu Tịnh độ thường y cứ tu tập nơi Kinh Di Đà, Kinh Vô lượng thọ, Kinh Quán vô lượng thọluận Vãng sanh cùng với chương Đại Thế Chí niệm Phật viên thông chương trong Kinh Lăng nghiêm để hành trì đồng thời cần tôn trọng trì giới, chí tâm niệm Phật cũng như hồi hướng mọi thiện căn hướng về cõi Tây phương

YẾU TỐ XÂY DỰNG TỊNH ĐỘ TẠI NHÂN GIAN

Trong Niệm Phật luận, thiền gia Trần Thái Tông khuyến tấn mọi người loại bỏ niệm xấu, thay vào đó bằng niệm tốt nơi ba nghiệp, thể hiện qua việc: “Trong lúc niệm Phật, thân thẳng ngồi ngay, không làm việc tà, như vậy là tắt được nghiệp thân. Miệng tụng lời chân chánh, không nói điều xằng bậy, thế là tắt được nghiệp miệng. Ý chăm chú ở sự tinh tiến, không nảy sinh ý tà, thế là tắt được nghiệp ý” [2]. Trong Thượng sĩ ngữ lục, Trần Tung có bài Thị tu Tây phương bối: “Thân báu Di Đà ẩn đáy lòng. Bốn phương thân pháp toả mênh mông” [3]. Sau này các tư tưởng ấy góp phần phát triển phương pháp Thiền-Tịnh song tu. 

Thật vậy, đầu tiên, chúng ta cần tịnh hóa thân: theo duyên sinh để quán chiếu năm uẩn mà dứt trừ chấp ngã với sự sống chết của sắc thân, thấy khổ, vui, tốt, xấu đan xen… không còn chấp mình ở trong đó. Là người con Phật phải luôn nương tựa Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng). Chúng ta phải tin sâu nhân quả nghiệp báo như trong Kinh Tiểu nghiệp phân biệt thuộc Kinh Trung bộ, Đức Phật dạy cho chàng thanh niên Subha rằng: “Này thanh niên, các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu” [4]. 

Nghiệp sát sinh chiêu cảm chiến tranh vì số người sát sinh còn nhiều, số người bảo vệ thiện lành ít nên chưa tạo nên Tịnh độ. Phật dạy thế giới sa bàngũ trược, nên chưa tạo nên Tịnh độ. Hành động trộm cắp chiêu cảm quả báo làm mà không được hưởng. Tịnh độ không có, nên hành giả phải tu tập mở tâm bố thí. Hành vi tà hạnh phá hủy hạnh phúc nhân sinh, nên không thể đạt mốc Tịnh độ. Chúng ta phải biết đủ, thường vui. Tịnh độthế giới ưa chuộng trí tuệ nên ta không dùng chất kích thích phá hoại tư duy, não bộ. Và chúng ta phải từ bi, bố thí, biết đủ, thường vui giúp người khác tu tập.

Tịnh hóa ý: Nghiệp thân để lại hậu quả nhưng lời nói tạo ra nghiệp rất tai hại, có thể phá hoại cả quốc gia. Nên chúng ta phải nói lời có lợi ích, chân thật giản dị, không phải vô bổ, không bàn chuyện phiếm. Phải tôn trọng sự thật, có nói có, không nói không, không đi lại trái sự thật, khi nói chân thật sẽ không gây nghiệp về khẩu. Nói lời nhu hòa, ái ngữ dễ đi vào lòng người. Không ai thích nghe lời gắt gỏng, ác khẩu. Lời không ái ngữ sẽ gây phản cảm và không mang lại lợi ích. Dùng lời chữa lành, vực dậy niềm tin cho họ, thay đổi tư duy giúp họ lấy lại niềm tin. Chúng ta ít khi vui với thành công của người khác nhưng hay đố kỵ, cũng không tùy hủy với thành công của người khác. Nếu biết dùng lời tùy hỷ khen ngợi chân thành thì dần dần chúng ta cũng tốt đẹp như điều ta khen ngợi người, vô tình tạo thành mối keo kết nối giữa người với người. Dù quý thầy hay quý Phật tử mới hoằng pháp mà tất cả chúng ta có thể làm cánh tay hoằng dương chánh pháp, đem lời Phật dạy thực hành và giúp mọi người hiểu, mưa dầm thấm đất. Thường xuyên nhớ lời Phật dạy sẽ ăn sâu vào tiềm thứcthực hành. Mình là người lợi ích trước.

Vì thế, hằng ngày tự thân phải luôn trau dồi thân, khẩu và ý cho thanh tịnh, trong đó Tâm (tức ý nghiệp) còn quan trọng hơn. Tâm như họa sĩ vẽ nên ngôi nhà, mà trong kinh Pháp cú, phẩm Song yếu dạy rằng:

“Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ ý tạo.
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng không rời hình” [5].

Tịnh hóa tâm: Phật giáo ví von chúng sinh được làm người ít như đất trong móng tay.  Người Phật tử làm đẹp nhà mình là muốn xây dựng Tịnh độ tại nhà mình nhưng còn muốn làm đẹp chùa, xây dựng Tịnh độ cho người khác cùng hưởng. Ngày ngày làm cỏ chùa, quét dọn làm sạch đẹp chùa, dọn nhà vệ sinh để cho mọi người sạch sẽ, những việc này khó làm nhất, mọi người ai cũng muốn ngồi bàn ghi công đức, muốn cắm hoa để kiếp sau được đẹp, muốn vào bếp để đông vui, làm cung nghinh rước quý thầy nhưng mấy ai muốn làm việc dọn dẹp nhơ uế, cũng như mấy ai muốn làm việc nhỏ nhặt nhưng cái gì càng khó làm công đức càng lớn. Nhưng nhà Phật làm những việc nhơ uế ấy công đức vô cùng, đó là công hạnh của Bồ tát, nếu khôngcông hạnh nhỏ như thế để viên tròn Phật quả thì còn lâu lắm mới thành tựu Phật quả, không có những giọt nước đó không sao đầy lu. Chúng ta không phô trương mà làm với hết trái tim người con Phật và làm vị tha làm vì chúng sinh, vì người khác. Thứ nữa là chuyển hóa hạt giống tham, sân, si, kiêu mạn. Nói dễ làm khó. Chúng rất khó bỏ vì nó đã ăn vào nghiệp thức của chúng sinh, là bản nghiệp, nó huân tập nhiều đời nhiều kiếp, nó huân tập quá lâu quá dầy nên rất khó bào mòn nhưng không phải không làm được. Nghiện rượu, thuốc còn khó bỏ huống chi tham, sân, si, mạn. Nhưng thế giới Tịnh độ nếu chúng ta vẫn còn những yếu tố này thì không về được. Bởi vì tham là nhân của ngạ quỷ, sân hậnnhân địa ngục, si mê là nhân của súc sinh nên có ba cái này không thể về cực lạc. Để làm được chúng ta học Phật, để nhổ những cây cỏ này, trồng những hạt giống từ bi, bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, chính ngữ, chính tư duy…. để kìm hãm cỏ và thanh lọc tâm. Để chúng ta sợ mà tránh. Sát sinh đập vào mắt rất nhiều để ta sợ quý thân người, những con ấy từng là người, từng sinh lên trời nhưng vẫn ở cõi súc sinh mà trả nghiệp vì nó từng tham, sân, si gây ra và không biết học phật, khi hết vòng luân chuyển lại làm người tiếp tục gây nhân và đọa ba đường ác. Chúng ta học Phật thì phải chuyển hóa, chính niệm để giữ lòng vững chãi khi gặp chướng duyên. Có mấy ai học mà nhớ hay nhớ mà không hành hay hành mà không tới. Chính niệm là tâm luôn nhớ nghĩ điều chính đáng, là nhớ Phật, nhớ pháp, nhớ tăng. Nửa tháng chúng ta nên tụng giới một lần để biết và xem chúng ta thực hành được gì. Chính niệm là nhớ nó và ý thức mình, nó như ngọn đèn soi tâm đi qua chướng duyên, nghịch cảnh.  Xem nó đem lợi ích gì, hậu quả gì. Nếu nó gây hại cho mình và người thì nhất quyết không làm. Việc thiện dù nhỏ chúng ta cũng nên làm.

Ta cần phát tâm bồ đề, hành Bồ tát đạo. Ngài Di Lặc hiện đang tu công hạnh Bồ tát, xây dựng Tịnh độ tại nhân gian, tương lai thành Phật tại sa bà nhưng rất lâu mới thành Phật. Theo Phật giáo, đất nước Ngài đẹp như cõi nước Phật Dược Sư. Nhân dân cõi nước ngài tuổi thọ 8 vạn tuổi. Hiện tại tuổi thọ trung bình của con người là 75 tuổi thì cứ 100 năm tuổi thọ giảm 1 tuổi đến khi nào tuổi thọ giảm đến 10 tuổi, người ta không biết Phật pháp, rất hung bạo, chỉ có chiến tranh… lúc đó là kiếp giảm thấp nhất, sau đó nó lại tăng dần, 100 năm lại tăng 1 tuổi, tăng lên đến 8 vạn 4 nghìn tuổi rồi giảm xuống còn 8 vạn tuổi thì lúc đó Di Lặc ra đời, thời gian còn rất xa. Vậy trong khoảng thời gian đó Ngài tu hạnh Bồ tát chuyển hóa thân, tâm, khẩu chúng sinh để từ xấu thành tốt, xây dựng cõi Tịnh độ tại nhân gian

Nhìn chung, muốn lợi ích an lạc cho chúng sinh có nhiều cách nhưng chúng ta có đủ phương cách, từ bi hay không, quý thầy lên nơi thanh vắng để tu cần gì phải xây dựng chùa to, cảnh lớn, thiết lập đạo tràng, khuyến dụ Phật tử tu tập. Để làm gì, để đem Phật pháp vào đời, làm lợi ích chúng sinh. Quý thầy vào đời là thiết lập Tịnh độ nhân gian, lan tỏa phật pháp, chuyển hóa tâm chúng sinh. Chiến tranh từ đâu là từ sát sinh, tham lam, sân hận. Họ đã có hạt giống tư thù rồi thì hiện tại đủ duyên nó chín thì bây giờ trổ ra. Phật tử học Phật, biết nhân quả chúng ta hãy lan tỏa nó ra cộng đồng, xây dựng thế giới hòa bình… chỉ có thể dựa vào bàn tay của chính chúng ta chứ không có thần thánh nào. Chúng ta những người con Phật hãy là những viên gạch lành lặn, vuông vắn, đặt đúng chỗ, kiên cố xây dựng quốc độ Tịnh độ tại nhân gian đẹp gần như thế giới của chư Phật.

KẾT LUẬN

Trên lộ trình tu tập, việc hành trì năm điều đạo đức (không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu) hay rộng hơn bằng việc giữ gìn mười điều thiện (không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không nói hai chiều, không nói thêu dệt, không nói lời mạ nhục hung ác, không tham lam, không sân giận, và không si mê hay tà kiến) sẽ thanh tịnh hóa ba nghiệp. Cũng chính ta làm ta được thanh tịnh, cũng chính ý niệm của ta dẫn ta rơi vào tam đồ ác đạo. Nên trong đời sống hằng ngày, giữa những đổi thay từng ngày, hành giả phải tu tập Bát chánh đạo (chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định), như lý tác ý nhận diện thiện và ác. Hành giả dù niệm mười đức hiệu Phật theo truyền thống Nguyên thuỷ hoặc niệm Phật A Di Đà theo Tịnh độ tông,… phải thức tỉnh tìm lại chất Phật trong ta mà Đức Phật từng nói rằng: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành” [6]. Bản thân mình phải tự thắp lên ngọn đuốc trí tuệ, siêng nghe giáo pháp và nghiên tầm kinh điển, chỉ nương tựa theo lời Phật dạy, không bị lệ thuộc vào thần quyền mê tín, hãy là kẻ thừa tự pháp trong xu thế phát triển công nghệ 4.0 và đạo đức con người có nguy cơ suy thoái. Ngày nay con người đang sống trong một xã hộivật chất hết sức sung mãn, nhờ vào những tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật. Tuy vậy, một nghịch lý đã phát sinh, khi mà giữa cảnh giàu sang phú quý con người lại không sao cảm nhận được hạnh phúcbình an trái lại là những nỗi bất an thường trực, phập phồng lo sợ về chiến tranh, đói nghèo và chết chóc khổ đau đang ngày một gia tăng. Sự chênh lệch quá lớn giữa giá trị vật chấtgiá trị tinh thần đã dẫn đến những khủng hoảng nghiêm trọnghậu quảtranh chấp bất anthống khổ ngập tràn trong xã hội. Như vậy, điều tiên quyết để giải trừ mọi vấn nạn hướng đến một xã hội thanh bình, thịnh vượng là phải biết cân bằng giữa giá trị vật chấtgiá trị tinh thần, quan trọng nhất là đầu tư giáo dục một lối sống lành mạnh hướng thiện bởi vì tâm tịnh thì quốc độ tịnh, nói cách khác Tịnh độ hay uế độtùy thuộc vào tâm niệm của mỗi người.

quốc độ nào đi nữa, dù xuất thân từ giai cấp nào hay thuộc thành phần nào trong xã hội, dù nam hay nữ,… mà tinh tấn tu tập, thanh tịnh ba nghiệp thì Tịnh độ hiện tiền giữa cuộc đời này. Không phải đợi vãng sanh về Tịnh độ Đâu suất của đức Di Lặc hay Tịnh độ Lạc bang của Đức Phật A Di Đà mà ngay bây giờ, hành giả phải nỗ lực hoàn thiện đạo đức tự thân (tu tập Bát chánh đạo, giữ mười điều thiện), hoà hợp và phát triển đạo đức gia đình cùng xã hội (kinh Thi Ca La Việt,…) và thành tựu đạo đức giải thoát là đã xây dựng một cõi Tịnh độ giữa nhân gian rồi. Mỗi ngày trôi qua, mạng sống giảm dần, gió vô thường không hẹn một ai, tâm mình đã vơi được bao nhiêu phiền não rồi; có nhận ra được lẽ vô thường, khổ và vô ngã trong ngũ uẩn duyên sanh hay không? Vì thế, chúng ta hãy thanh tịnh hoá chính bản thân ngay hôm nay và thành tựu đạo lộ giải thoát trong mai sau.

Tóm lại, con người là chủ nhân của mọi nguồn cơn, khổ đau hay hạnh phúc, Tịnh độ hay uế độ, có được cuộc sống bình an, một cuộc đời tự do, một thế giới hòa bình, một tương lai rực rỡ… là tùy thuộc vào thái độ sống và tiến trình tu tập của mỗi người. Chỉ có những nỗ lực chuyển hóa nội tâm của chính mình cùng với sự cải thiện lối sống gia đìnhxã hội hướng đến chân – thiện – mỹ, thì cảnh giới Tịnh độ tại nhân gian sẽ được hiện thực hóa ngay tại thế giới ta bà.

 

Chú thích:

* Học viên Cao học khóa III – Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội.

[1] Thích Thanh Từ (2010), Thiền sư Việt Nam, Sơ Tổ phái Trúc LâmTrần Nhân Tông, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr. 340.

[2] Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý – Trần, tập 2, Quyển thượng, Nxb. Khoa học Xã hội, tr. 84.

[3] https://www.thivien.net/Tu%E1%BB%87-Trung-th%C6%B0%E1%BB%A3ng-s%C4%A9/Th%E1%BB%8B-tu-T%C3%A2y-Ph%C6%B0%C6%A1ng-b%E1%BB%91i/poem-0G2Na-8DCPRN3yLNu_j9aQ.

[4] https://suttacentral.net/mn135/vi/minh_chau?reference=none&highlight=false

[5] https://loiphatday.org/kinh-phap-cu-01-pham-song-yeu/.

[6] Đời Dao Tần, Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập dịch từ Phạn sang Hán, HT.Thích Trí Tịnh dịch từ Hán sang Việt, Đại chính, tập 24, số 1484, Phật thuyết Phạm võng kinh Bồ-tát tâm địa phẩm.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 20951)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 23250)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 18799)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 15329)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 46474)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 15208)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 42446)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 12997)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 33048)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 51049)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 6522)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 13041)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 29180)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 34228)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 23438)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 30196)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 29891)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 32522)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 10491)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 58311)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 14072)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 11295)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 30839)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25146)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22644)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 32973)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 17600)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 41966)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45496)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 31948)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11231)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 27192)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17612)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 12145)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 28953)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28085)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 22588)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 17246)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11807)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34566)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 26214)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 28972)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 13102)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 28782)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 18575)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 46125)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 13727)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 29856)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 22656)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 12443)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 37102)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 36744)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant