Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Điền Email để nhận bài mới

Sự Phát Triển, Phân Loại Và Giải Thích Về Không

02 Tháng Tư 201100:00(Xem: 7058)
Sự Phát Triển, Phân Loại Và Giải Thích Về Không

SỰ PHÁT TRIỂN, PHÂN LOẠI VÀ
GIẢI THÍCH VỀ KHÔNG

(Trích dịch từ Chương III của tác phẩm Nghiên cứu về thuyết Tánh Không)

Tác giả: Pháp sư Ấn Thuận
Người dịch: Thích Nhuận Thịnh

1. Sự phát triển và phân loại của Không

Kinh Bát-nhã lấy niết-bàn siêu việt danh, tướng, phân biệt, cũng chính là sự tự chứng của Thích-ca Như lai, làm lập trường căn bản. Dựa theo đây để quán tất cả pháp, hữu vivô vi không phải là hai, sanh tử và niết-bàn không phải là hai, tất cả đều không phải là hai, không phải là khác, ‘dứt tuyệt mọi hí luận’. Dùng điều này để giáo hóa dẫn dắt, thì không bằng như sự giáo hóa của đức Thích tôn, không bắt đầu từ vô thường, khổ, mà trực tiếp từ không, vô tướng, vô nguyện, v.v., nhập môn, đây là Phật pháp Đại thừađặc sắc của kinh Bát-nhã. Biểu thị nội dung này, như đoạn ở trên đã trình bày, có các tên gọi khác nhau như không, vô tướng, vô nguyện, chẳng khởi, chẳng sanh, vô sở hữu, viễn ly, tịch tĩnh, như, pháp giới, thật tế, v.v., nhưng chỗ độc đáo được kinh Bát-nhã phát huy là không – tất cả pháp là không. Vốn là, kinh Bát-nhã không phải là chẳng nói ‘không’ là chẳng thể được, như kinh Kim cang bát-nhã ba-la-mật, toàn bộ kinh chỉ nói đến vô tướng, trọn không có một chữ ‘không’ nào. Được suy đoán là kinh Bát-nhã nguyên thỉ, phẩm Đạo hành của kinh Đạo hành Bát-nhã cũng không có nói đến ‘không’, chỉ nói ‘ly’, ‘vô sở hữu’, ‘vô sanh’, ‘vô tánh’, ‘không thể nắm bắt’, v.v.

Hạ bản Bát-nhã đã nói đến không, mở đầu nói: “Dùng pháp không để trụ nơi bát-nhã ba-la-mật.” Thế nào là ‘an trụ nơi pháp không’? Kinh trên nói: không trụ nơi hết thảy pháp; không trụ nơi thường và vô thường, vui và khổ, tịnh và bất tịnh, ngã và vô ngã, không và chẳng phải không của hết thảy pháp1 (Trung bản Bát-nhã có thêm: không trụ nơi tịch diệtkhông tịch diệt, viễn ly và không viễn ly). Còn nữa, Tu-bồ-đề (Subhūti) nói: Pháp sâu xatùy thuận mọi pháp; là pháp (sâu xa) không có chỗ chướng ngại, là pháp không sanh, là pháp không có nơi chốn (dấu vết). Các thiên tử nghe xong, tán thán rằng: “Trưởng lão Tu-bồ-đề là sanh từ Phật; vì có thuyết một pháp gì, thì pháp đó đều là không.”2 ‘Vì đều là không’, Huyền trang dịch là ‘vì tất cả đều phù hợp với không’. Ở đây có thể thấy, không có chỗ chướng ngại, không có sanh, không có nơi chốn mà kinh văn nói, đều phù hợp với không, có thể nói đều là nghĩa của không. Còn nữa, Thích đề-hoàn nhân nói: “Thưa ngài Tu-bồ-đề! Như điều mà Ngài đã nói, đều là nhân nơi không.”3 ‘Đều là nhân nơi không’ là nói Tu-bồ-đề an trụ nơi pháp không, vốn thể ngộ về không mà thuyết pháp, dùng mọi pháp (cảnh) nào, hành pháp nào, đắc được pháp (quả) nào, thì người mà đắc được pháp đó, đều không có đắc gì cả. Dựa vào mấy đoạn kinh văn này, và các tên gọi khác nhau của tánh không của pháp đã dẫn ở trên, có thể biết được điều mà Hạ bản Bát-nhã đã nói, là ở trong thực tiễn của bát-nhã, làm rõ tánh không sâu xa. Tánh không sâu xa, trải qua sự nghe, tư duy, quán sát, mà đến chỗ ngộ triệt để của vô sanh pháp nhẫn.

Đến thời Trung bản Bát-nhã, đã có sự phát triển thêm một bước nữa, đem các loại không sắp xếp lại. Trung bản Bát-nhãcần phải chia làm 3 phần, 1. Phần đầu (tiền phần): kinh ở trên nói: “Bồ-tát ma-ha-tát thực hành phù hợp [tương ưng] với bát-nhã ba-la-mật, đó là không, vô tướng, vô tác.” Tuy đồng thời nêu ra ba giải thoát môn, nhưng lại xem trọng không, cho nên nói: “Phù hợp với cái không này, gọi là sự phù hợp đệ nhất.” “Sự phù hợp tối đệ nhất trong các loại phù hợp, đó là phù hợp với không.”4 Quyển 1 của kinh Ma-ha bát-nhã ba-la-mật* nói:

“Vị Bồ-tát ma-ha-tát thực hành bát-nhã ba-la-mật, nên thực tập 7 không, đó là: tánh là không, tự tướng là không, các pháp là không, không thể nắm bắt là không, pháp vô là không, pháp hữu là không, pháp vừa vô vừa hữu là không.”

Bảy loại không cũng được Trung bản Bát-nhã nói đến, nhưng phần thứ 2 của kinh Phóng quang Bát-nhã ba-la-mật và phần thứ 3 của kinh Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa đều không có liệt kê danh mục của 7 không. Kinh Quang tán Bát-nhã ba-la-mật đã liệt kê danh mục của 7 không: nội là không, ngoại là không, hữu là không, vô là không, gần là không, xa là không, chân thật là không (tức thắng nghĩa là không),”5 lại cùng với 7 không mà kinh Ma-ha bát-nhã ba-la-mật nói bất đồng. Kinh Phóng quang Bát-nhã ba-la-mật, v.v., không có liệt kê danh mục, mà cái danh mục đã được liệt kê thì lại bất đồng với nhau, 7 loại không đó, rốt cục là bảy loại không chăng? Dựa theo kinh văn để xem xét, 7 không là tổng kết văn đã nói ở phía trên, như kinh Phóng quang Bát-nhã nói: “Sao gọi là bảy? Là 7 sự việc ở trên vậy.”6 Văn ở phía trên nói cần phải thực tập về không, là quán riêng 5 uẩn là không, 12 xứ là không, 18 xứ là không, 4 Đế là không, 12 duyên khởi là không, tất cả pháp (hoặc hữu vi, hoặc vô vi) là không, bổn tánh là không. Đây là 7 không mà phần trước [Trung bản Bát-nhã]đã nói vậy!

Phần sau [Hậu phần] của Trung bản Bát-nhã có phân loại của 14 loại không, như quyển 523 (phần thứ 3) của kinh Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa* nói:

“Vị Bồ-tát ma-ha-tát an trụ nơi bát-nhã ba-la-mật-đa, quán nội không và tánh của nội không là không thể nắm bắt, quán ngoại không và tánh của ngoại không là không thể nắm bắt, quán nội ngoại không và tánh của nội ngoại không là không thể nắm bắt, quán đại không và tánh của đại không là không thể nắm bắt, quán không không và tánh của không không là không thể nắm bắt, quán thắng nghĩa không và tánh của thắng nghĩa không là không thể nắm bắt, quán hữu vi không và tánh của hữu vi không là không thể nắm bắt, quán vô vi không và tánh của vô vi không là không thể nắm bắt, quán tất cánh không và tánh của tất cánh không là không thể nắm bắt, quán vô tế không và tánh của vô tế không là không thể nắm bắt, quán vô tán không và tánh của vô tán không là không thể nắm bắt, quán bổn tánh không và tánh của bổn tánh không là không thể nắm bắt, quán tướng không và tánh của tướng không là không thể nắm bắt, quán tất cả pháp không và tánh của tất cả pháp không là không thể nắm bắt; vị Bồ-tát ma-ha-tát này an trụ trong 14 loại không này.”

Phần cuối của phần thứ 2 của kinh Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa, kinh Phóng quang Bát-nhã, kinh Ma-ha Bát-nhã, cùng với kinh văn của phần cuối của phần thứ 3 tương đương, đều nói rõ ràng đến 14 không, đây là lấy ‘tất cả pháp là không’ làm sau cùng.7 Ngoài ra, kinh Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật nói đến: “Tất cả pháp đều bởi vì bên trong là không cho nên không, bên ngoài là không cho nên không, bên trong-ngoài không cho nên không, không là không, (đại không, đệ nhất nghĩa không), hữu vi là không, vô vi là không, tất cánh là không, vô thỉ là không, tán là không, tánh là không, tất cả pháp là không, tự tướng là không cho nên không.”8 Đây cũng là 14 loại không, nhưng bỏ rơi mất đại khôngđệ nhất nghĩa không. Ở đây là đặt ‘tất cả pháp là không’ ở trước, ‘tự tướng là không’ ở sau trong 14 loại không. Phần thứ 2 và phần thứ 3 của kinh Đại Bát-nhã cũng đều là như vậy, chỉ là nói một cách giản lược: “Do bên trong là không cho nên không, như vậy cho đến (do tự) tướng là không cho nên không.”9 Phẩm Khen ngợi sự thanh tịnh (thuộc phần giữa – Trung phần) của kinh Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật cũng có lấy ‘tự tướng là không’ làm sau cùng của 14 loại không, phần thứ 2 của kinh Đại Bát-nhã tương đồng.10 Nhưng phần thứ 3 và kinh Phóng quang Bát-nhã đều không có. Cho nên 14 loại không là được xếp vào của phần sau (Hậu phần), đây là do về sau bị chép dời đi sang phần giữa (Trung phần). sự thành lập thành nhóm của 14 loại không, làm cơ sở cho 16 loại không, 18 loại không, 20 loại không sau này.

Mười sáu loại không là thuộc phần thứ 3 của kinh Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa. Tại phần giữa, khi giải thích về tướng của Đại thừa, lập nên 16 loại không (cả 3 phần, nhiều chỗ đều có nói đến 16 loại không). 16 loại không là: ở phía sau của ‘tất cả pháp là không’ là sau cùng của 14 loại không, thêm vào ‘tánh của vô là không’ và ‘vô tánh tự tánh là không’.11 Nhưng trong chỗ khuyến khích học tập Bát-nhã của phẩm Duyên khởi, từ chỗ 16 loại không trở về sau, lại nói ‘và sở duyên là không, tăng thượng là không, v.v., vô là không, v.v.”12, đây là điểm cần được chú ý.

Mười tám loại không là thuộc phần thứ 2 của kinh Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa. Trong chỗ nói về tướng của Đại thừa thuộc phần giữa (Trung phần), lập nên 18 loại không; đây là ở trong 16 loại không, đã chen vào ‘không thể nắm bắt là không’ và ‘tự tánh là không’. Kinh Ma-ha Bát-nhã, kinh Phóng quang Bát-nhã, kinh Quang tán Bát-nhã cùng thuộc vào Trung bản Bát-nhã, cũng lập 18 loại không giống như thế.13 Tại chỗ khuyến khích học tập, phần thứ 2 lập 20 loại không (cùng với Thượng bản Bát-nhã tương đồng); kinh Ma-ha Bát-nhã cũng là 18 loại không.14 Trong kinh Phóng quang Bát-nhã, đã bỏ rơi mất ‘bên trong-ngoài là không’, ‘tự tướng là không’, ‘tự tánh là không’, ‘vô tánh tự tánh là không’, chỉ có 14 loại không.15 Tại chỗ khuyến khích học tập trong kinh Quang tán Bát-nhã ba-la-mật, lại đề cập đến bên trong là không, bên ngoài là không, bên trong-ngoài là không, không là không, đại không, cái không của cứu cánh (tất cánh không), sở hữu là không, vô hữu là không, hữu vi là không, vô vi là không, chân thật là không (thắng nghĩa không), không có tế tự là không, không có nhân duyên là không, nhân duyên là không, tướng tự nhiên là không (tự tướng là không), tất cả pháp là không, không thể nắm bắt là không, vô sở hữu là không (vô tánh là không), tự nhiên là không (tự tánh là không), vô hình tự nhiên là không (vô tánh tự tánh là không), nhân duyên oai thần là không – 21 loại không.16 So sánh với 18 loại không, thì đã thiếu ‘vô tế là không’, ‘tán là không’ và ‘bổn tánh là không’, nhưng lại có ra nhiều hơn ‘sở hữu là không’, ‘vô hữu là không’, ‘không có tế tự là không’, ‘vô nhân duyên là không’, ‘nhân duyên là không’, ‘nhân duyên oai thần là không’. Đây là vô cùng bất đồng, có thể so sánh với phần thứ 3, như quyển 479 của kinh Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa* nói:

“Thông đạt về bên trong là không, bên ngoài là không, … vô tánh tự tánh là không, và sở duyên là không, tăng thượng là không, v.v., vô là không, v.v.”

Sở duyên là không, tăng thượng (duyên) là không mà phần thứ 3 đã nói, cùng với nhân duyên là không, vô nhân duyên là không, nhân duyên oai thần là không, của Phóng quang Bát-nhã, không phải có ý nghĩa tương tự nhau chăng! Vốn dĩ, tại chỗ khuyến khích học tập bát-nhã, thứ tự của bộ phận kinh văn này, mỗi loại kinh vốn là như thế này:17

A

B

C

D

E

1

18 không

1

20 không

1

14 không

1

21 không

1

16 không

2

4 duyên

3

4 duyên

 

 

 

 

2

Sở duyên là không, v.v.

3

(chân) như, v.v.

2

Chân như, v.v.

2

Như, v.v.

2

Như lai, v.v.

3

Chân như, v.v.

Căn cứ vào đây có thể thấy, từ 18 không trở xuống, phải là 4 duyên, mà Phóng quang Bát-nhã và phần thứ 3 lại đem nhân duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, v.v., cũng chép nhầm là thuộc vào loại không. Đây là sự lầm lẫn của tả bản Phạn bổn truyền lại, là không đủ để làm căn cứ. Còn về ‘vô là không, v.v.’ mà phần thứ 3 đã nói, đó là ngoài 18 loại không ra, nêu tóm lược ‘hữu tánh là không’, ‘vô tánh là không’, ‘tự tánh là không’, ‘tha tánh là không’.

Phần đầu (Sơ phần) (Thượng bản Bát nhã) của kinh Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với ‘tự tánh là không’ (hoặc nói: tướng là không hoặc tự-cộng tướng là không) thuộc bản chính, chia ra làm ‘tự tướng là không’ và ‘cộng tướng là không’ – hai loại không. ‘Tán là không’ (hoặc nói: vô tán là không hoặc tán vô tán là không) thuộc bản chính, chia ra làm ‘tán là không’ và ‘vô biến dị là không’ – hai loại không. Như vậy, 18 không được phát triển thành 20 loại không.18 7 không, 14 không, 16 không, 18 không mà Trung bản Bát-nhã đã nói, Thượng bản Bát-nhã đều thay đổi và chép giống nhau là 20 loại không, do đó, quá trình diễn tiến của sự phân loại tánh không, không thể rõ ràng hơn nữa. Bây giờ, dựa vào bản do Huyền trang dịch, đem danh mục của 14 không, 16 không, 18 không, 20 không so sánh như sau:

14 không

16 không

18 không

20 không

Nội không

Nội không

Nội không

Nội không

Ngoại không

Ngoại không

Ngoại không

Ngoại không

Nội-ngoại không

Nội-ngoại không

Nội-ngoại không

Nội-ngoại không

Không không

Không không

Không không

Không không

Đại không

Đại không

Đại không

Đại không

Thắng nghĩa không

Thắng nghĩa không

Thắng nghĩa không

Thắng nghĩa không

Hữu vi không

Hữu vi không

Hữu vi không

Hữu vi không

Vô vi không

Vô vi không

Vô vi không

Vô vi không

Tất cánh không

Tất cánh không

Tất cánh không

Tất cánh không

Vô tế không

Vô tế không

Vô tế không

Vô tế không

Tán không

 

 

Tán không

 

 

Tán vô tán không

 

 

tán không

 

Vô biến dị không

Bổn tánh không

Bổn tánh không

Bổn tánh không

Bổn tánh không

 

 

 

Tự tướng không

Tự cộng tướng không

Tướng không

Tự cộng tướng không

 

 

 

 

Cộng tướng không

Nhất thiết pháp không

Nhất thiết pháp không

Nhất thiết pháp không

Nhất thiết pháp không

 

 

Bất khả đắc không

Bất khả đắc không

 

Vô tánh không

Vô tánh không

Vô tánh không

 

 

Tự tánh không

Tự tánh không

 

Vô tánh tự tánh không

Vô tánh tự tánh không

Vô tánh tự tánh không

Sự phân loại của các loại không, một số là từ trong kinh A-hàm và luận A-tỳ-đàm mà ra. Như luận Xá-lợi-phất A-tỳ-đàm lập nên 6 loại không, luận Thi thiết lập nên 10 loại không.19 Nội dung của 6 loại không và 10 loại không chính là 12 loại không đứng đầu của 14 loại không, chỉ thiếu một loại là tất cánh không. Cho nên, kinh Bát-nhã là tại các loại không phổ biến ở trên, dựa vào pháp môn bát-nhã, phân loại nhiều thêm nên thành các loại không đó.

Trung bản Bát-nhã đã liệt kê 16 loại không, 18 loại không (Thượng bản Bát-nhã liệt kê 20 loại không), đây là từ quán sát sự và nghĩa bất đồng, nhằm chỉ rõ tất cả đều là không. Tuy nhiều chỗ liệt kê các loại không, nhưng kiểm tra Trung bản Bát-nhã thì thấy nhiều lần đề cập đến nó, phần đầu (từ phẩm Tự đến phẩm Tướng lưỡi) là: 1. (Bổn) tánh là không, như nói: ‘cần phải học tập tánh không’. 2. (Tự) tánh là không, như nói: ‘tánh của từ Bồ-tát là không’. 3. Không thể nắm bắt được không, như nói: ‘vì không thể nắm bắt không ấy, nên chỉ dùng danh từ diễn tả’. 4. Tự tướng là không, như nói: ‘nhập vào tự tướng là không của tất cả pháp’. 5. Tất cả pháp là không, như nói: ‘cần phải học tập ràng tất cả các pháp đều là không’. 6. Tất cánh là không, như nói: ‘vì tất thảy đều là không, nên đừng sanh tâm tiếc lẩn,… đừng sanh tâm si mê’.20 Phần giữa (từ phẩm Ba thứ giả đến phẩm Vô tận) là: 1. (Bổn) tánh là không, như nói: ‘dùng trí do chứng được tánh không để nhập vào tướng của các pháp’. 2. Tự tướng là không, như nói: ‘trong pháp mà tự tướng là không thì không được chấp trước vào nó’. 3. Tự tánh là không, như nói: ‘vì tự tánh của tất cả pháp đều là không’. 4. Tất cánh là không, 5. Vô thỉ là không, như nói: ‘tất thảy là không, vì vô thỉ [ngay từ đầu] là không’. 6. Pháp vô và pháp hữu đều là không (tức là không có tánh và tự tánh là không), như nói: ‘bát-nhã ba-la-mật không bị lay chuyển, không bị quay ngược cho nên ra khỏi, vì pháp vô và pháp hữu đều là không’. 7. Pháp vô là không (tức tánh ‘vô’ là không), như nói: ‘cho thấy Phật và thế gian, pháp vô là không’.21 Phần sau (từ phẩm Nhiếp năm [độ] về sau) là: 1. Tự tánh là không, như nói: ‘tự tánh là không, hư dối như là quáng nắng’. 2. Tự tướng là không, như nói: ‘cần phải thực hành rằng tự tướng của các pháp là không’. 3. Tất cánh là không, 4. Vô thỉ là không, như nói: trụ trong 2 loại không – tất thảy là không, vô thỉ là không, mà thuyết pháp cho chúng sanh’. 5. (Bổn) tánh là không, như nói: ‘quán tánh của tất cả pháp là không’. 6. Không thể nắm bắt là không, như nói: ‘ở trong không, tướng không là không thể nắm bắt, này Tu-bồ-đề! Đó gọi là không thể nắm bắt là không’. 7. Tất cả pháp là không, như nói: ‘sau khi đắc được pháp vô sở hữu, thấy tất cả pháp là không’.22 Xem xét tổng quát toàn bộ Trung bản Bát-nhã, từ sự bất đồng về sự và nghĩa để hiển thị tánh không, dùng bổn tánh là không (prakṛti-śūnyatā), tất cánh là không (atyanta-śūnyatā), tự tánh là không (svabhāva-śūnyatā), tự tướng là không (svalakṣaṇa-śūnyatā), đặc biệttự tánh là không và tự tướng là không, ứng dụng rất rộng rãi. Tự tánh (svabhāva) là tự thể của mỗi pháp, tướng (lakṣaṇa) là tướng đặc biệt của mỗi pháp. Cho nên biết có bao nhiêu pháp thì nhất định là nhờ tướng của nó nên biết được; từ mỗi mỗi tướng mà được nhận thức đến, suy đoán và xác định về pháp có sự bất đồng nào với pháp khác, đây chính là dùng tướng để biết pháp. Tự tánhtự tướng chính là luận đề căn bản của A-tỳ-đạt-ma. Trung bản Bát-nhã nói: tự tánh là không và tự tướng là không (hoặc nói tướng là không), lại dùng tự tánh và (tự) tướng, làm sự quán sát lẫn nhau, mà làm rõ sự không thể nắm bắt của tự tánh và tướng, như kinh nói:23

“‘1. Sắc, là lìa tánh của sắc, … cũng lìa tướng của sắc. … Tướng cũng lìa tướng, tánh cũng lìa tánh.’

‘2. Sắc, là lìa tự tánh của sắc, … cũng lìa tướng của sắc. … Tự tánh cũng lìa tự tánh, tướng cũng lìa tướng; tự tánh cũng lìa tướng, tướng cũng lìa tự tánh.’”

Từ các loại không (có các tên gọi khác như ly, tịnh, v.v.) đã liệt kê, biết rằng điều mà kinh Bát-nhã nói là dựa vào nhiều pháp, nhiều vấn đề, mà qui chúng vào sự siêu việt danh, tướng, phân biệt.

2. Giải thích về Không

Không, ở trong kinh Bát-nhã, nói được vô cùng rộng, rốt cục thuyết minh như thế nào?

1. Các loại không mà kinh Bát-nhã phân loại, lại dựa vào 18 loại không để nói: 1. Nội không (adhyātma-śūnyatā), bên trong là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý – sáu nội xứ, là tự thể của thân và tâm của chúng sanh. Sáu nội xứ là không, gọi là nội không. 2. Ngoại không (bahirdhā-śūnyatā): bên ngoài là sắc, âm thanh, hương, vị, xúc, pháp – sáu ngoại xứ, là đối tượng [cảnh] mà mắt, v.v., nhận lãnh. Sáu ngoại xứ là không, gọi là ngoại không. 3. Nội-ngoại không (adhyātma-bahirdhā-śūnyatā): nội-ngoại là 6 xứ bên trong và 6 xứ bên ngoài, xứ bên trong và ngoài đều là không, gọi là nội-ngoại không. 4. Không không (śūnyatā-śūnyatā): không là tất cả pháp đều là không, không cũng là không, gọi là không không. 5. Đại không (mahā-śūnyatā): đại là 10 phương, 10 phương là sự rộng lớn vô hạn, 10 phương rộng lớn là không, gọi là đại không. 6. Thắng nghĩa không (paramārtha-śūnyatā): thắng nghĩa chính là niết-bàn, niết-bàn là không, gọi là thắng nghĩa không. 7. Hữu vi không (saṃskṛta-śūnyatā): hữu vidục giới, sắc giới, vô sắc giới; tam giớisanh tử lưu chuyển là không, gọi là hữu vi không. 8. Vô vi không (asaṃskṛta-śūnyatā): vô vi là không có tướng sanh, trụ, diệt, vô vi chẳng sanh chẳng diệt là không, gọi là vô vi không. 9. Tất cánh không (atyanta-śūnyatā): tất cánhđạt đến chỗ cứu cánh triệt để, cho nên cũng còn được dịch là chí cánh không. Cứu cánh [rốt ráo] là không, gọi là tất cánh không. 10. Vô tế không (anavarāgra-śūnyatā): tế là biên tế [giới hạn cuối, bờ, mé]. Đức Phật nói: ‘chúng sanh từ vô thỉ đến ngày nay’, không có bờ mé tối sơ, cho nên gọi là vô tế [không có bờ mé] (hoặc dịch là vô thỉ không, bất khả đắc nguyên không). Dựa vào bờ mé tối sơ mà tiến thêm nói đến trung tế, hậu tế, tam tế không có thời gian, cho nên nó là không, gọi là vô tế không. 11. Tán vô tán không: Phạn bản của bản gồm 100.000 bài tụng (Thượng bản Bát-nhã), bản gồm 25.000 bài tụng (Trung bản Bát-nhã), nguyên văn chép là anavakāra-śūnyatā, là ‘vô tán không’. Vô tán không là nghĩa căn bản của kinh Bát-nhã, như kinh Phóng quang Bát-nhã dịch là ‘vô tác không’. Giải thích rằng ‘không có sự từ bỏ đối với các pháp’. Kinh Quang tán Bát-nhã dịch là ‘bất phân biệt không’, giải thích rằng: ‘Nó không xả pháp nào, cũng không trụ nơi pháp nào’. Kinh Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật tuy dịch là ‘tán không’, giải thích cũng vẫn là: ‘tán là tên gọi chỉ cho các pháp không có sự diệt’. Phần thứ 3 của kinh Đại Bát-nhã ba-la-mật nói: “Nếu pháp nào mà không thể có sự quăng, bỏ, xả được, thì gọi là vô tán(a).”1 Bát-nhã trình bày về không, không dùng vô thường làm đối tượng chính để quán, cho nên không có bỏ, không có xả, đích thị là vô tán; vô tán (hoặc dịch là ‘vô biến dị’) là không, gọi là vô tán không. Luận Đại trí độ dẫn kinh A-hàm, giải thích về tán không,2 chính là luận ý của Long thọ (Nāgār-juna). 12. Bổn tánh không (prakṛti-śūnyatā): bổn tánh là tánh của pháp hữu vi, tánh của pháp vô vi, tánh chất vốn có của nó là như thế, nên gọi là bổn tánh. Tánh của pháp hữu vivô vi là không, gọi là bổn tánh không. 13. Tự-cộng tướng không, theo Phạn bản của bản gồm 100.000 bài tụng, bản gồm 25.000 bài tụng, thì nguyên văn là svalakṣaṇa-śūnyatā, cần phải dịch là tự tướng. Như sự biến hoạitự tướng của sắc,3 lãnh nạptự tướng của thọ, v.v.; tự tướng là không, gọi là tự tướng không. Kinh Quang tán, Phóng quang Bát-nhã, v.v., đều chép như thế, nhưng bản dịch của Huyền trang, lại giải thích rằng tự tướngcộng tướng là không. 14. Nhất thiết pháp không (sarvadharma-śūnyatā): tất cả pháp là 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới, v.v.; tất cả pháp đều là không, gọi là nhất thiết pháp không. 15. Bất khả đắc không (anupalambha-śūnyatā): bất khả đắc là mong cầu hết thảy pháp là không thể được [không thể nắm bắt được mọi pháp], bất khả đắc chính là không, gọi là bất khả đắc không. 16. Vô tánh không (abhāva-śūnyatā): vô tánh là không thể nắm bắt được dù một thứ nhỏ nhất; vô tánh là không, gọi là vô tánh không. 17. Tự tánh không (svabhāva-śūnyatā): tự tánh là ‘ở trong các pháp mà do sự hòa hợp sanh ra, có tướng của tự tánh’; hoặc nói là ‘tự tánh của các pháp mà do có khả năng hòa hợp sanh ra’.4 Tự tánh là không thể nắm bắt, nên gọi là tự tánh không. 18. Vô tánh tự tánh không (abhāva-svabhāva-śūnyatā):(b) bản dịch của Huyền trang là: “vô tánh tự tánh, đó là tánh của các pháp mà không thể hòa hợptự tánh của pháp mà có hòa hợp;”5 vô tánh tự tánh là không, gọi là vô tánh tự tánh không. Nhưng theo bản dịch của Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva), thì đây là vô tánh không và tự tánh không được gộp chung mà gọi, cùng với ý nghĩa của nội-ngoại không giống nhau.6

Trong đoạn mà kinh Bát-nhã giải thích về tướng của Đại thừa, dù là bản nói 16 loại không, bản nói 18 loại không, bản nói 20 loại không, cũng đều tiếp theo lại nói đến 4 loại không: ‘hữu tánh do hữu tánh không, vô tánh do vô tánh không, tự tánh do tự tánh không, tha tánh do tha tánh không’. 1. Hữu tánh không (bhāva-śūnyatā): hữu tánh – bhāva, dịch là ‘hữu’, như tam giới gọi là tam hữu, quá trình sanh tử lưu chuyển thì lập nên tứ hữu, trong 12 duyên khởi có một chi gọi là hữu chi, hữu là pháp hữu vi (sanh tử) như 5 uẩn, v.v. Hữu (hoặc dịch là hữu tánh, hữu pháp, là sự tồn tại hiện thực) như vậy là không, gọi là hữu tánh không. 2. Vô tánh không (abhāva-śūnyatā): vô tánhvô hữuvô vi pháp. Vô tánh là không, gọi là vô tánh không. 3. Tự tánh không (svabhāva-śūnyatā): tự tánh của tất cả pháp đều là không, ‘không chẳng phải do trí làm ra, chẳng phải do cái thấy [quan niệm] làm ra’, chẳng phải là do từ nơi trí (jñāna), kiến (darśana) mà [trở nên] không, cho nên tự tánh không là ‘tự nó vốn là không’. 4. Tha tánh không (parabhāva-śūnyatā): kinh trên nói: “Nếu Phật xuất hiện ở đời hay không xuất hiện ở đời, thì pháp trụ, pháp định,…, thật tế, đều vì do tha tánh cho nên không”, tha tánh có nghĩa là gì? Chân như, thật tế, v.v., nếu Phật xuất hiện ở đời thì nó cũng như thế, hay Phật không xuất hiện ở đời thì nó cũng như thế, dựa theo phương tiện thế tục để nói, đây là đối với Phật nhưng có ý nghĩa khách quan, cho nên gọi là tha tánh. Tha tánh – chân như, v.v., là không, gọi là tha tánh không. Nhưng kinh Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật nói: “Nếu Phật xuất hiện ở đời, hay Phật chưa xuất hiện ở đời, thì pháp trụ, pháp tướng (pháp tánh), pháp vị (pháp định), pháp tánh (pháp giới), như, thật tế, các pháp mà vượt hơn những pháp này là không, đó gọi là tha pháp tha pháp không(c).”7 ‘Các pháp mà vượt hơn những pháp này là không’, cùng với điều mà kinh Bát-nhã nói: ‘Ta nói niết-bàn cũng như huyễn, như mộng; nếu sẽ có pháp nào thù thắng hơn niết-bàn, thì Ta nói, nó cũng lại là như huyễn, như mộng,”8 có ý nghĩa tương đồng. Cho nên luận Đại trí độ giải thích rằng: “có người chưa khéo đọan trừ được sự trói buộc của nhận thức [kiến kết], sanh chấp trước về mọi đối tượng. Người này nghe nói về như thị, pháp tánh (pháp giới), thật tế, bèn nói rằng, còn có pháp khác vượt quá pháp này, bởi vậy nên nói rằng nếu có pháp nào vượt hơn như, pháp tánh, thật tế, thì pháp ấy cũng là không.”9 Bốn loại không này, theo bản Phạn gồm 25000 bài tụng, là ở sau 16 loại không, nói lại 4 loại không, gần với phần thứ 3 của kinh Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhưng Phạn bản không có ‘vô tánh không’ mà có ‘bất khả đắc không’, cho nên từ 16 loại không trở về sau, nói lại 4 loại không, đều không có trùng lặp. Bốn loại không này, đều không rời hữu (bhāva), là hữu và vô hữu, tự hữu và tha hữu, biểu thị mỗi mỗi cái ấy là không.

2. Kinh Bát-nhã từ các loại pháp môn, từ các quan điểmbiểu lộ tánh không, cho nên phân loại làm các loại (tánh) không, lại tóm lược thành 4 loại không; hữu tánh không, vô tánh không, tự tánh không, tha tánh không. Tuy nói là có nhiều loại không, mà lý do những thứ ấy sở dĩ là không, thì các kinh nói hoàn toàn nhất trí. Thử dẫn một trong 18 loại không để làm ví dụ, như kinh Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật* nói:

“Ở đây, hữu vi không là gì? [Pháp] được gọi là hữu vidục giới, sắc giớivô sắc giới; ở đây, dục giới là không, lý do bởi vì dục giới là chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Tánh của nó là như vậy. Sắc giới là không, lý do bởi vì sắc giới là chẳng phải thường hằng, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Tánh của nó là như vậy. Vô sắc giới là không lý do bởi vì vô sắc giới là chẳng phải thường hằng, chẳng phải diệt. Tại sao vậy? Tánh của nó là như vậy. Đây được gọi là hữu vi không.”

“Ở đây, vô vi không là gì? Pháp được gọi là vô vi là pháp mà nó không có sanh, không có diệt, không có tướng trụ, không biến đổi thành cái khác. Đây được gọi là vô vi. Pháp vô vi là không, lý do bởi vì vô vi là không phải thường, không phải diệt. Tại sao vậy? Tánh của nó là như vậy. Đây được gọi là vô vi không.”(d)

‘Tánh của nó tự là như vậy’, Huyền trang dịch là ‘vì bổn tánh là như vậy’. Các loại không của kinh Bát-nhã đều là bổn tánh khôngxưa nay vốn như vậy; vì bổn tánh là không, cho nên là chẳng phải thường, chẳng phải [đoạn] diệt. Nói theo thông thường: hữu vitam giới có sự lưu chuyển của sanh tử, là sanh diệt; vô vi là không có sanh diệt. Hữu vi là chẳng phải thường [hằng], vô vithường trụ. Nhưng trong sự nhận thức đúng đắn về bát-nhã, hữu vi, vô vi đều là tánh của nó tự là không. Vì sao là không? Bởi vì nó chẳng phải thường, chẳng phải [đoạn] diệt. điều này dường như rất khó hiểu! Pháp hữu vi chẳng phải thường, sao nói chẳng hoại diệt vậy? Pháp vô vi không có tướng sanh, trụ, diệt, thì sao nói nó chẳng phải thường? Chẳng phải thường, chẳng phải diệt, thì vì sao nói là không vậy? Không biết sự phân biệt giữa hữu vivô vi, là tùy thuận phương tiện của thế tục mà nói, như luận Đại trí độ* nói:

“Lìa hữu vi thời không có vô vi, vì sao vậy? Thật tướng của pháp hữu vi tức là vô vi, tướng của vô vi thì chẳng phải là hữu vi, nhưng vì chúng sanh điên đảo cho nên phải chia ra mà nói [phân biệt thuyết]. … Nếu pháp vô vi mà có tướng, thì là hữu vi.”

Pháp vô vithật tướng (tướng thật) của pháp hữu vi, không phải là pháp đối lập hoàn toàn bất đồng. Vì cần để giải thích, không thể không nói là hai – hữu vivô vi. Kỳ thật, hữu vi chính là vô vi, không nhận biết được hữu vi tức là vô vi (chẳng phải hai pháp hợp làm một); ‘không chấp thủ tướng đối với pháp hữu vi và pháp vô vi’ (đây là ý nghĩa nguồn gốc của vô vi). Thế thì, không ngại từ pháp hữu vi để nói đến ‘chẳng phải thường, chẳng phải diệt’, như kinh Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật* nói:

“Này Tu-bồ-đề! Ý của ông như thế nào? Tâm mà đã diệt cũng chính là cái tâm sẽ sanh trở lại ư? Không phải vậy, thưa Thế tôn!”

“Này Tu-bồ-đề! Ý của ông như thế nào? Cái tâm mà đã sanh, thì nó cũng chính là cái pháp diệt chăng? Đúng vậy, chính là pháp diệt, thưa Thế tôn!”

“Này Tu-bồ-đề! Ý của ông như thế nào? Cái pháp diệt đó cũng chính là cái pháp sẽ diệt chăng? Không phải vậy, thưa Thế tôn!”

“Này Tu-bồ-đề! Ý của ông như thế nào? Như như thế nào thì sẽ trụ như thế ấy chăng? Đúng vậy, thưa Thế tôn! Như như thế nào thì sẽ trụ như thế ấy.”

Này tu-bồ-đề! Nếu mà như như thế nào sẽ trụ như thế ấy, thì tức là thường trụ chăng? Không phải vậy, thưa Thế tôn!”(e)

Tâm trước và tâm sau là không thể đồng thời mà có, thế thì, cái trước diệt cái sau sanh, làm sao có thể nối tiếp nhau để căn lành được tăng trưởng, viên thành Phật đạo vậy? Phật nêu lên ví dụ như cái đèn đốt cái tim [cái bấc], dùng ý nghĩa chẳng phải tức, chẳng phải ly để giải thích, điều này vừa mới dẫn ra một đoạn vấn đáp. Tâm đã diệt rồi, thì không thể sanh khởi trở lại. Tâm đã sanh khởi rồi thì sẽ có tướng diệt, tướng diệt này lại là không phải diệt. Vì tướng diệt là không phải diệt, cho nên hỏi rằng: ‘thế thì chân như trụ như thế chăng? Cái trụ của chân như lại là không phải thường trụ. Đoạn vấn đáp này chẳng phải chính là ‘chẳng phải thường, chẳng phải diệt’ ư? Thông thường nói các hành là vô thường, nhưng luận đến khoảng giữa của tâm trước diệt và tâm sau được sanh ra, vẫn không khỏi có sai lầm về có giai đoạn giữa. Như các nhà Duy thức học đã đề xuất ra giải thích ‘khi nhân đi trước mà diệt thì quả đi sau lập tức sanh ra, như hai đầu của cái cân khi đầu này đi xuống thấp thì đầu kia đi lên, v.v.’, cũng không khỏi có hiềm nghi về trước và sau là đồng thời xảy ra. Đồng thời, sao có thể có trước và sau vậy? Theo kinh Bát-nhã và luận ý của Long thọ: “Nếu vô thườngthật tánh của tất cả pháp, thì không có sự vận hành của nghiệp báo, …, bởi vậy cho nên tánh của các pháp là chẳng phải vô thường.” “Nếu tất cả pháp thật sự đều là vô thường, thì sao Phật nói nếu cho rằng thế gian vô thường thì gọi là tà kiến! … Nhiều nơi Phật nói đến vô thường, nhiều nơi Phật nói đến bất diệt. … Vì phá cái quan niệm điên đảo chấp thường nên nói là vô thường. … Thật tướng của các pháp là chẳng phải thường, chẳng phải vô thường.”10 Cho nên, tướng của pháp là chẳng phải thường, chẳng phải diệt, cũng chính là chẳng phải thường, chẳng phải ô thường. Quán tất cả pháp là chẳng phải thường, chẳng phải diệt, không rơi vào nhị biên là thường và vô thường, khế hội được tánh không của trung đạo.

Đoạn ở trên đã dẫn ví dụ như cái đèn đốt cái tim, kinh nói là: “luận chứng [lý thú] của duyên khởi cực kỳ sâu xa.”11 Duyên khởi sâu xaduyên khởi ‘chẳng phỉa thường, chẳng phải diệt’, mà ‘chẳng phỉa thường, chẳng phải diệt, vì bổn tánh vôn là như vậy’ trong 18 loại không, đã biểu thị tánh không của tất cả pháp. Chẳng phải thường, chẳng phải diệt cũng chính là giả danh mà không có tự tánh, như kinh Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật* nói:

“Thưa Ngài Xá-lợi-phất! Tất cả pháp đều là chẳng phải thường trụ, chẳng phải diệt. … Sắc là chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Vì sao vậy? Vì tánh của nó tự là như vậy. Thọ, tưởng, hành, thức đều là chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Vì sao vậy? Vì tánh của nó tự là như vậy. Cho đến cảm thọ sanh ra do ý tiếp xúc với các nhân duyên là chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Vì sao vậy? Vì tánh của nó tự là như vậy. Bởi vì lý do này, thưa Ngài Xá-lợi-phất, các pháp do sự hòa hợp mà sanh nên không có tự tánh.”(f)

‘Các pháp do sự hòa hợp mà sanh nên không có tự tánh’, phần thứ 2 của kinh Đại Bát-nhã gọi là ‘chỉ có tên gọi giả, đều không có tự tánh.’12 Tên gọi giả [giả danh] là các pháp do sự hòa hợp [của nhân duyên] mà được sanh ra, không có tự tánh cũng chính là không. Có thể thấy cái nhìn chính xác của bát-nhã là thông đạt tất cả pháp là chẳng phải thường, chẳng phải diệt (không rơi vào nhị biên) nên là không. Cho nên kinh Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật nói: “Bát-nhã ba-la-mật xa lìa sanh-tử, vì chẳng phải thường chẳng phải diệt(g).”13




1Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8, tr. 540b.

2Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 8, T. 8, tr. 562b.

3Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 9, T. 8, tr. 577a-b.

4Ma-ha bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8, tr. 224a-c, 225a.

*Ma-ha bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T.8, tr. 222c-223a.

5Quang tán Bát-nhã ba-la-mật kinh 8, T. 8, tr. 199b, 203a. Và quyển 9, tr. 204c.

6Phóng quang Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8, tr. 5c.

*Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 523, T.7, tr. 682b.

7Đại Bát-nhã ba-la-mật đa kinh 459, (phần thứ 2), T. 7, tr. 320b-c. Phóng quang Bát-nhã ba-la-mật kinh 15, T. 8, tr. 109b. Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 20, T. 8, tr. 367b.

8Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 23, T. 8, tr. 387b.

9Đại Bát-nhã ba-la-mật đa kinh 466, (phần thứ 2), T. 7, tr. 360a. Và Phần thứ 3, quyển 529, tr. 13b.

10Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 12, T. 8, tr. 307c.Đại Bát-nhã ba-la-mật đa kinh 436, (phần thứ 2), T. 7, tr. 195b-c.

11Đại Bát-nhã ba-la-mật đa kinh 488, (phần thứ 3), T. 7, tr. 480b.

12Đại Bát-nhã ba-la-mật đa kinh 479, (phần thứ 3), T. 7, tr. 430c.

13Đại Bát-nhã ba-la-mật đa kinh 413, (phần thứ 2), T. 7, tr. 73a. Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 5, T. 8, tr. 250b. Phóng quang Bát-nhã ba-la-mật kinh 4, T. 8, tr. 23a-b. Quang tán Bát-nhã ba-la-mật kinh 6, T. 8, tr. 189b trở về sau.

14Đại Bát-nhã ba-la-mật đa kinh 402, (phần thứ 2), T. 7, tr. 8c. Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8, tr. 219c.

15Phóng quang Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8, tr. 3a. ‘Tự tánh không’ trong kinh này là cách dịch khác của ‘bổn tánh không’.

16Phóng quang Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8, tr. 149c – 150a.

*Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 479, T. 7, tr. 430c.

17A. Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8, tr. 219c. B. Đại Bát-nhã ba-la-mật kinh 402, (phần thứ 2), T. 7, tr. 8c. C. Phóng quang Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8, tr. 3a-b. D. Quang tán Bát-nhã ba-la-mật kinh 1, T. 8, tr. 149c – 150a. E. Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 479, (phần thứ 3), T. 7, tr. 430c.

18Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh 51, (phần đầu), T. 7, tr. 290c.

19Xá-lợi-phất A-tỳ-đàm luận 16, T. 28, tr. 633a. Thi thiết luận, xem A-tỳ-đạt-ma Đại Tỳ-bà-sa luận 8, T. 27, Tr. 37a; và quyển 104, tr. 540a.

20Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh: 1. Quyển 1, T. 8, tr. 222c. 2. Quyển 1, tr. 221b. 3. Quyển 1, tr.221c. 4. Quyển 1, tr. 223b. 5. Quyển 1, tr. 222c. 6. Quyển 2, tr. 229a. Về phía trên đều nêu một đoạn làm ví dụ; hai đoạn sau cũng như thế.

21Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh:1. Quyển 3, T. 8, tr. 236a. 2. Quyển 4, tr. 243b. 3. Quyển 11, tr. 299a. 4.5. Quyển 12, tr. 307b. 6. Quyển 12, tr. 311b. 7. Quyển 14, tr. 326c.

22Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh:1. Quyển 21, T. 8, tr. 369b. 2. Quyển 21, tr. 373c. 3. Quyển 23, tr. 388a. 4. Quyển 24, tr. 392b. 5. Quyển 25, tr. 402a. 6. Quyển 26, tr. 410a. 7. Quyển 26, tr. 412a.

231. Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 3, T. 8, tr. 236c. 2. Đại Bát-nhã ba-la-mật đa kinh 409, (phần thứ 2), T. 7, tr. 49b.

(a)Skt: “yasya dharmasya na kaścid avakāraḥ, avakāro nāma avikiraṇaṃ choraṇam utsargaḥ.”

1Đại Bát-nhã ba-la-mật kinh 488 (phần thứ 3), T.7, tr. 480c.

2Đại trí độ luận 31, T. 25, tr. 292a.

3‘Não hoại tướng’, bản dịch của Huyền trang chép ‘biến ngại tướng’, là dựa vào Thuyết Nhất thiết hữu bộ mà sửa.

4Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 5, T. 8, tr. 250c. Đại Bát-nhã ba-la-mật kinh 413 (phần thứ 2), T.7, tr. 73c.

(b)Tham khảo: tatra katamā abhāvasvabhāvaśūnyatā? nāsti sāṃyogikasya dharmasya svabhāvaḥ pratītyasamutpannatvāt, saṃyogaḥ saṃyogena śūnyo 'kūṭasthāvināśitām upādāya. tat kasya hetoḥ? prakṛtir asyaiṣā, iyam ucyate abhāvasvabhāvaśūnyatā.

5Đại Bát-nhã ba-la-mật đa kinh 413 (phần thứ 2), T. 7, tr. 73C.

6Đại trí độ luận 31, T. 25, tr. 296a.

(c)Tham khảo: tatra katamā parabhāvaśūnyatā? yā utpādād vā tathāgatānāṃ anutpādād vā sthitaivaiṣā dharmāṇāṃ dharmatā dharmasthititā dharmadhātur dharmaniyāmatā tathatā avitathatā ananyatathatā bhūtakoṭis tasyā yā tayā śūnyatā akūṭasthāvināśitām upādāya, na sā pareṇa kṛtā. tat kasya hetoḥ? prakṛtir asyaiṣā, iyam ucyate parabhāvaśūnyatā. Pañcaviṃśatisāhasrikā Prajñāpāramitā sūtra.

7Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 5, T. 8, tr. 251a.

8Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 8, T. 8, tr. 276b.

9Đại trí độ luận 46, T. 25, tr. 396b.

*Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 5, T. 8, tr. 250b-c.

(d)Skt: tatra katamā saṃskṛtaśūnyatā? saṃskṛta ucyate kāmadhātū rūpadhātur ārūpyadhātuś ca, tatra kāmadhātuḥ kāmadhātunā śūnyo 'kūṭasthāvināśitām upādāya. tat kasya hetoḥ? prakṛtir asyaiṣā, rūpadhātū rūpadhātunā śūnyo 'kūṭasthāvināśitām upādāya. tat kasya hetoḥ? prakṛtir asyaiṣā, ārūpyadhātur ārūpyadhātunā śūnyo 'kūṭasthāvināśitām upādāya. tat kasya hetoḥ? prakṛtir asyaiṣā, iyam ucyate saṃskṛtaśūnyatā.
tatra katamā asaṃskṛtaśūnyatā? asaṃskṛta ucyate yasya notpādo na nirodho na sthitir nānyathātvam, idam ucyate asaṃskṛtam (PvsP1-2: 62) asaṃskṛtena śūnyam akūṭasthāvināśitām upādāya. tat kasya hetoḥ? prakṛtir asyaiṣā, iyam ucyate asaṃskṛtaśūnyatā. Pañcaviṃśatisāhasrikā Prajñāpāramitā sūtra.

*Đại trí độ luận 31, T. 25, tr. 289a.

*Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh 7, T. 8, tr. 567b.

(e)Skt: “Tatkiṃ manyase subhūte yaccittaṃ niruddham, api nu tatpunarutpatsyate? subhūtirāha - no hīdaṃ bhagavan / bhagavānāha - taktiṃ manyase subhūte yaccittamanutpannam, api nu tannirodhadharmi? āha - nirodhadharmi bhagavan / bhagavānāha - tatkiṃ manyase subhūte yannirodhadharmi, api nu tannirotsyate?” “tatkiṃ manyase subhūte tathaiva sthāsyati yathā tathatā? āha - tathaiva bhagavan sthāsyati yathā tathatā / bhagavānāha - tatkiṃ manyase subhūte yadi tathaiva sthāsyati yathā tathatā, tadā mā kuṭasthā bhūt? āha - no hīdaṃ bhagavan.” Aṣṭasāhasrikā prajñāpāramitā sūtra, phẩm 19.

10Đại trí độ luận 1, T. 25, tr. 60b. Và quyển 18, tr. 193a-b.

11Đại Bát-nhã ba-la-mật đa kinh 450 (phần thứ 2), T. 7, tr. 273b.

*Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 7, T. 8, tr. 269b.

(f)Tham khảo: punar aparaṃ śāriputrākūṭasthā avināśinaḥ sarvadharmāḥ. śāriputra āha: kena kāraṇenāyuṣman subhūte akūṭasthāvināśinaḥ sarvadharmāḥ. subhūtir āha: rūpam āyuṣman śāriputra akūṭastham avināśi. tat kasya hetoḥ? prakṛtir asyaiṣā, vedanā saṃjñā saṃskārā, vijñānam āyuṣman śāriputra akūṭastham avināśi. tat kasya hetoḥ? prakṛtir asyaiṣā, evaṃ kuśalam akuśalaṃ sāvadyam anavadyaṃ sāsravam anāsravaṃ saṃkleśaṃ niḥkleśaṃ laukikaṃ lokottaraṃ saṃskṛtam asaṃskṛtaṃ saṃkleśo vyavadānaṃ saṃsāro nirvāṇam akūṭastham avināśi. tat kasya hetoḥ? prakṛtir asyaiṣā, anenāyuṣman śāriputra paryāyeṇābhāvasvabhāvāḥ sarvadharmāḥ. Pañcaviṃśatisāhasrikā Prajñāpāramitā sūtra.

12Đại Bát-nhã ba-la-mật đa kinh 422 (phần thứ 2), T. 7, tr. 122c.

(g)Skt: “Saṃsāravimokṣā bhagavan prajñāpāramitākūṭasthāvināśitām upādāya.” (Thưa Thế tôn! Bát-nhã ba-la-mậtgiải thoát khỏi luân hồi, lý do vì nó chẳng phải thường, chẳng phải diệt). Pañcaviṃśatisāhasrikā Prajñāpāramitā sūtra.

13Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh 11, T. 8, tr. 302b.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant