Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Điền Email để nhận bài mới

Chương 18: Quán Pháp

03 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 4517)
Chương 18: Quán Pháp

LONG THỌ BỒ TÁT Nāgārjuna
TRUNG LUẬN Mādhyamaka-Sāstra

Hán dịch: Tam tạng Pháp sư CƯU-MA-LA-THẬP Kumārajīva
Việt dịch THÍCH NỮ CHÂN HIỀN
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo - Hà Nội PL. 2546 - DL. 2003

CHƯƠNG XVIII: QUÁN PHÁP[1]

Hỏi: Nếu các pháp đều rốt ráo tánh không, không sanh, không diệt, đó là thật tướng của các pháp, thì làm thế nào thể nhập?

Đáp: Hủy diệt sự đắm chấp ngã, ngã sở, chứng đắc tất cả pháp là không; có trí tuệ vô ngã. Đó gọi là nhập.

Hỏi: Làm thế nào biết các pháp là vô ngã?

Đáp:

225)Nếu ngã là năm ấm,

Ngã ấy là sanh diệt.

Nếu ngã khác năm ấm,

Tất không tướng năm ấm.[2] [1] 

Nếu như không có ngã,

Đâu thể có ngã sở.

Do diệt ngã, ngã sở,

Gọi đắc trí vô ngã. [2] 

 

Nếu được trí vô ngã,

Ấy gọi là thật quán.

Người đắc trí vô ngã,

Người đó là hy hữu. [3] 

Trong ngoài ngã, ngã sở,

Vì diệt hết không còn;

Các thọ ấy cũng diệt,

Thọ diệt tức thân diệt. [4] 

Nghiệp diệt, phiền não diệt,

Gọi đó là giải thoát.

Nghiệp, phiền não không thật,

Nhập không, hí luận diệt. [5] 

Chư Phật hoặc nói ngã;

Hay nóivô ngã.

Trong thật tướng các pháp,

Không ngã, chẳng phi ngã. [6] 

Thật tướng các pháp đó,

Tâm hành ngôn ngữ đoạn;

Không sanh cũng không diệt,

Tịch diệt như Niết-bàn. [7] 

Tất cả thật, phi thật,

Vừa thật vừa phi thật,

Không vừa thật phi thật;

Ấy gọi chư Phật pháp. [8] 

Tự biết không do ai,

Tịch diệt, chẳng hí luận.

Không khác, không phân biệt;

Đó tất gọi thật tướng. [9] 

Nếu pháp từ duyên sanh,

Không một, không khác nhơn;.

Thế nên gọi thật tướng,

Không đoạn cũng không thường. [10] 

Không nhất, cũng không dị,

Không thường, cũng không đoạn;

Ấy là vị cam lồ,

Giáo hóa của Thế Tôn. [11] 

Nếu Phật không xuất thế,

Phật pháp đã diệt tận.

Trí các Bích-chi-Phật,

Từ nơi xa lìa sanh. [12] 

Nếu có ai chủ trương về thần ngã, thì có hai trường hợp. Hoặc năm ấm tức là thần ngã. Hoặc lìa năm ấmthần ngã. Nếu năm ấmthần ngã, thần ngã là tướng sanh diệt, như trong bài tụng nói, “Nếu ngã là năm ấm, ấy là tướng sanh diệt.” Tại sao? Vì sanh rồi bại hoại. Vì là tướng sanh diệt, năm ấmvô thường. Như năm ấm vô thường, hai pháp sanh diệt cũng vô thường. Vì sao? Sanh diệt cũng sanh rồi bại hoại, nên vô thường

Thần ngã nếu là năm ấm; vì năm ấm vô thường, thần cũng sanh diệt tướng vô thường. Song điều ấy không đúng. Nếu như lìa năm ấm có thần, thần ngã chẳng có tướng năm ấm. Như trong bài tụng nói, “Nếu thần ngã khác năm ấm thì không phải tướng năm ấm.” Vì lìa năm ấm không có pháp nào nữa. Nếu lìa năm ấm mà có pháp; bằng tướng gì, bằng pháp gì mà có? 

Nếu nói rằng thần ngã như hư không, lìa năm ấm mà có, cũng không đúng. Vì sao? Trong chương “Phá lục chủng” đã hủy phá hư không; không có pháp gì gọi là hư không

Nếu nói do có Tín nên có thần ngã; điều ấy không đúng. Tại sao? Tín có bốn thứ: 1) Việc hiện có, đáng tin. 2) Do loại suy nên tin: như thấy khói biết có lửa. 3) Thí dụ có thể tin: như trong nước không có đồng, dụ đồng như vàng. 4) Các bậc Hiền Thánh nói ra đáng tin; như nói có “địa ngục,” có “thiên đường,” có cõi “Uất-đơn-việt.” Không có người thấy, nhưng tin lời Thánh nhân mà biết. Thần ngã ấy không được nhận biết trong tất cả Tín. Trong việc hiện tại cũng không; trong loại suy cũng không. Tại sao? Loại suy là vì trước thấy, sau so sánh cùng loại mà biết. Như người thấy trước lửa có khói, sau chỉ thấy khói biết có lửa. Nghĩa là thần ngã không phải thế, ai có thể trước thấy thần ngã cùng năm ấm hiệp; sau thấy năm ấm biết có thần? Nếu nói có ba thứ loại suy: 1) Như cái gốc. 2) Như cái còn lại.3) Là thấy chung. Như cái gốc, nghĩa là trước thấy lửa có khói, nay thấy khói như trước biết có lửa. Như cái còn lại, như là thổi lửa nấu cơm một hạt cơm chín thì biết bao nhiêu hạt còn lại đều chín. Thấy chung, như là mắt trông thấy người từ đây đi đến kia và kia cũng thấy sự đi của nó. Mặt trời cũng như thế, từ phương đông xuất hiện đến phương tây, tuy không thấy nó đi nhưng vì tính cách đi của con người nên biết mặt trời cũng có đi. Cũng thế, khổ, vui, yêu, ghét, giác, tri v.v… cũng phải có chỗ tựa. Như thấy nhân dân trong nước, biết họ tất tựa nơi vua. Điều ấy đều không đúng. Vì sao? Trong sự đi do tướng chung. Trước thấy người cùng sự đi phối hiệp mà đến phương khác; sau thấy mặt trời đến phương khác nên biết có sự đi. Nhưng không có trước thấy năm ấm cùng thần ngã hiệp, để sau thấy năm ấm biết có thần ngã. Thế nên trong loại suy bằng tướng chung cũng không thần ngã. Trong lời Thánh nhân nói cũng không thần ngã. Vì sao? Thánh nhơn nói ra là trước mắt thấy rồi sau nối. Lại các bậc Thánh nhân nói những điều khác đều đáng tin. Nên biết nói địa ngục v.v.. cũng đáng tin. Nhưng thần ngã không phải thế, không có trường hợp trước thấy thần rồi sau nói. Thế nên trong bốn điều tin, toàn thần ngã không thể được. Vì tìm thần ngã chẳng thể nên không. Thế nên ngoài năm ấm không riêng có thần ngã

Lại nữa, trong chương “Phá lục căn,” phá cái thấy, người thấy, cái bị thấy, thần ngã cũng đồng phá. Lại như mắt nhìn thấy những pháp thô còn không thể nắm bắt được, huống là ức tưởng v..v… hư dối mà có thần ngã. Thế nên biết không có ngã. 

Nhơn có ngã nên có ngã sở. Nếu không ngã, không có ngã sở. Tu tập tám phần thánh đạonhơn duyên hủy diệt ngã và ngã sở, được trí tuệ quyết định về vô ngã, vô ngã sở. Lại vô ngã, vô ngã sở đối trong đệ nhất nghĩa cũng không thể nắm bắt được. Người đắc vô ngã, vô ngã sở có thể nhận thấy các pháp một cách chân thật. Người phàm phu do ngã và ngã sở ngăn che tuệ nhãn, không thể thấy sự thật. Nay thánh nhơn vì vô ngã, vô ngã sở nên các phiền não tiêu diệt. Các phiền não diệt hết, cho nên có thể thấy tướng thật các pháp. Vì trong, ngoài, ngã, ngã sở hủy diệt nên các thọ cũng diệt. Vì các thọ diệt, vô lượng thân sau đều diệt, đó gọi là Vô dư Niết-bàn.

Hỏi: Hữu dư Niết-bàn như thế nào?

Đáp: Vì những phiền não và nghiệp hủy diệt nên gọi là tâm được giải thoát. Các phiền não, nghiệp đều từ ức tưởng phân biệt, đều từ hí luận phát sanh. Chứng đắc thật tướng của các pháp rốt ráo không; những hí luận hủy diệt, thì gọi là Hữu dư Niết-bàn. Thật tướng các pháp là như thế. Chư Phật dùng Nhất thế trí quán các loài chúng sanh, tùy nghi giảng thuyết; có lúc nói có ngã, cũng có khi nói vô ngã. Nếu người tâm chưa thuần thục, chưa có phần Niết-bàn, chẳng biết sợ tội lỗi; vì những người ấy nói có ngã. Nếu có người đắc đạo, nhận biết các pháp là không, chỉ giả danh có ngã; vì những người đó nói hữu ngã cũng không lỗi. Lại, có người bố thí, trì giới, phúc đức v.v.. Chán lìa khổ não sanh tử, sợ Niết-bàn là vĩnh viễn tịch diệt, thế nên đức Phật vì những người ấy nói vô ngã. Các pháp chỉnhân duyên hòa hiệp; khi sanh, chỉ là cái không sanh; lúc diệt chỉ là cái không diệt. Thế nên nói vô ngã; chỉ giả danh nói có ngã. Lại, vì người đắc đạo biết vô ngã, không rơi vào đoạn diệt, nói vô ngã không lỗi. Thế nên, trong bài tụng nói, “Chư Phật nói có ngã, cũng có lúc vô ngã. Nếu trong nghĩa chân thật, không nói ngã hay phi ngã.”

Hỏi: Nếu vô ngã là thật, chỉ vì thế tục nói có ngã có lỗi gì?

Đáp: Nhơn phá hủy pháp ngã nên có vô ngã. Ngã quyết định không thế được, huống là vô ngã. Nếu quyết địnhvô ngã, tất là đoạn diệt; sẽ sanh sự tham đắm. Như trong kinh Bát-nhã nói, “Những vị Bồ-tát có ngã cũng chẳng phải là hành Bát-nhã; vô ngã cũng chẳng phải hành (Bát-nhã).”

Hỏi: Nếu không nói ngã, phi ngã, không, bất không, thì trong Phật Pháp nói cái gì?

Đáp: Đức Phật nói về thật tướng các pháp. Trong thật tướng không đường ngôn ngữ, diệt các tâm hành. Tâm do duyên sự chấp thủ tướng mà sanh, vì nghiệp quả báo bao đời trước nên có, không thể thấy thật các pháp, thế nên nói tâm hành diệt.

Hỏi: Nếu tâm của các phàm phu không thể thấy chân thật, nhưng tâm thánh nhân lẽ ra thấy chân thật. Tại sao? Vì tất cả tâm hành đều diệt.

Đáp: Thật tướng các pháp tức là Niết-bàn; Niết-bàn gọi là diệt. Diệt là hướng về Niết-bàn nên cũng gọi diệt. Nếu tâm ấy thật, cần gì ba giải thoát môn, Không, vô tướng, vô nguyện; và trong các thiền định tại sao lấy Diệt tận định làm bậc nhất? Lại, cũng chung qui về Vô dư Niết-bàn. Thế nên phải biết, tất cả tâm hành đều hư vọng. Vì hư vọng nên phải hủy diệt. Thật tướng các pháp vượt ra các tâm sở pháp, không sanh, không diệt, tướng tịch diệt như Niết-bàn.

Hỏi: Trong kinh nói: “Các pháp từ trước đến giờ tướng là tịch diệt”; đấy chính là Niết-bàn; sao lại nói như Niết-bàn?

Đáp: Bời vì người chấp trước các pháp, phân biệt pháp có hai thứ, đây là thế gian, kia là Niết-bàn. Nói Niết-bàn là tịch diệt, không nói thế gian tịch diệt. Trong luận đây nói, tất cả pháp là tánh không, là tướng tịch diệt. Vì người chấp pháp, không hiểu rõ, nên lấy Niết-bàn làm tỉ dụ. Như ông nói, tướng Niết-bàn là không, vô tướng, tịch diệt, không hí luận. Tất cả pháp thế gian cũng như thế.

Hỏi: Nếu đức Phật không nói ngã, và phi ngã, các tâm hành diệt, đường ngôn ngữ chấm dứt; làm thế nào mọi người biết thật tướng các pháp?

Đáp: Chư Phật có vô lượng sức phương tiện. Đối các pháp không có tướng quyết định, vì độ chúng sanh mà hoặc nói, tất cả là thật; hoặc nói tất cả không thật; hoặc nói tất cả vừa thật vừa không thật; hay nói tất cả không phải vừa thật vừa không thật.

Tất cả thật, là do xét kỹ thật tánh các pháp, thấy đều nhập vào đệ nhất nghĩa; bình đẳng, nhất tướng, tức là vô tướng. Như các dòng sông, tuy màu sắc khác, vị khác, nhưng khi vào biển cả chỉ có một màu, một vị.

Tất cả không thật, là khi các pháp chưa nhập thật tướng, mỗi mỗi phân biệt quán sát đều không có thật, chỉ do các duyên hòa hợp nên có.

Tất cả vừa thật vừa không thậtchúng sanh có ba hạng, thượng căn, trung cănhạ căn. Hàng thượng căn, quán tướng các pháp, chẳng thật, chẳng phải không thật. Hàng trung căn quán tướng các pháp, tất cả thật hoặc tất cả không thật. Hàng hạ căntrí lực cạn cợt, quán tướng các pháp,một ít thật và một ít không thật. Quán Niết-bàn là pháp vô vi không hoại diệt nên thật; quán sát sanh tửpháp hữu vi hư ngụy nên không thật.

Không vừa thật, vừa không thật, là vì phá hủy cái vừa thật, vừa không thật nên nói không vừa thật, vừa không thật.

Hỏi: Đức Phật ở chỗ khác nói: “Lìa phi hữu, phi vô.” Trong đây sao lại nói “phi hữu, phi vô” bảo đó là lời Phật dạy?

Đáp: Những chỗ khác là vì phá bốn sự tham đắm nên nói. Nhưng trong đây đối với bốn cú không hí luận, nghe Phật dạy thì đắc đạo; thế nên nói, không thật chẳng phải không thật.

Hỏi: Biết rằng Phật nói bằng nhơn duyên tứ cú; nhưng do tướng nào để có thể biết sự chứng đắc thật tướng của các pháp, và thật tứơng là gì?

Đáp: Nếu có thể không do ai khác là. Không do ai khác ấy là, hoặc ngoại đạo dùng sức thần thông hiển bày nói thế này là đạo, thế kia chẳng phải đạọ; nhưng tự tin ở tâm mình chứ không theo kẻ đó. Cho đến biến hóa thân, tuy không[3] biết chẳng phải là Phật, nhưng khéo rõ thật tướng, tâm không bị chuyển theo họ. Trong đấy không có pháp đáng thủ, đáng xả, gọi là tướng tịch diệt. Vì tướng tịch diệt, không bị hí luận bởi sự hí luận. Hí luận có hai thứ: 1) ái luận. 2) kiến luận. Trong đây không có hai thứ hí luận này. Vì không có hai thứ hí luận thì không có ức tưởng phân biệt, không có tướng dị biệt; ấy gọi là thật tướng.

Hỏi: Nếu các pháp đều không, há không rơi vào đoạn diệt ư? Lại, không sanh không diệt, hoặc sẽ rơi vào thường chang?

Đáp: Không đúng. Trước nói thật tướng là không hí luận; tâm tướng tịch diệt, đường ngôn ngữ chấm dứt. Nay ông tham đắm chấp tướng, đối trong pháp chân thật mà phạm sai lầm của kiến chấp đoạn, thường. Người chứng đắc thật tướng, nói các pháp từ các duyên sanh, chẳng phải đồng nhất với nhơn cũng không phải là khác với nhơn, thế nên không đoạn, không thường. Nếu quả khác với nhân tức là đoạn, nếu quả không khác nhân ấy là thường.

Hỏi: Nếu hiểu rõ như thế có lợi ích gì?

Đáp: Nếu người hành đạo, mà có thể thấu suốt ý nghĩa như thế, thì đối tất cả pháp, không phải một, chẳng phải khác, không phải đoạn, chẳng phải thường. Nếu có thể như thế, liền hủy diệt các phiền não hí luận, được thường lạc Niết-bàn. Thế nên nói, chư Phật dùng vị cam lồ để giáo hóa. Như người thế gian nói, “Được nước cam lồ của chư thiên thì không có già, bịnh, chết và chẳng có các suy não. Pháp thật tướng này giống như vị cam lồ”. 

Phật dạy thật tướng có ba thứ. Nếu chứng đắc thật tướng các pháp, diệt các phiền não gọi là pháp Thanh văn. Nếu sanh lòng đại từ bi, phát tâm vô thượng, gọi là Đại thừa. Nếu Phật không xuất thế, lúc không có Phật pháp, hàng Bích-chi Phật nhơn sống viễn ly mà phát sanh trí tuệ. Hoặc Phật độ chúng sanh rồi nhập vô dư Niết-bàn, Pháp Phật lưu truyền bị diệt hết. Nếu có người đời trước lý đáng đắc đạo, chỉ do nhơn duyên có thiếu phần quán yểm ly, nay một mình vào sơn lâm, xa lìa ồn náo đắc đạo, gọi là Bích-chi Phật.

 
--------------------------------------------------------------------------------

[1] Tiêu đề chương trong bản Phạn: Àtma-parìkwà, khảo sát về tự ngã, hay phẩm Quán ngã.

[2] Quán phápquán sát ngã pháp do đâu mà có . Thân ta là do 5 ấm hòa hiệp hình thành, nên nó không thật có. Ngã và vật sở hữu của ngã cũng là giả hữu. Nhận thức như thế thì không bị đắm nhiễm ngã, pháp và có trí vô ngại. Đức Thế Tôn nói thật tướng chơn Như, không phải thường, đoạn, một và khác. Chơn lý Phật như nước cam lồ làm tươi mát muôn vật sống động an vui, không từ bỏ một chúng sanh nào. Nhận thức các pháp vô thường vô ngã v.v.. theo kinh Phật nói có ba hạnh: 1) Hàng Thanh Văn, là do thính pháp văn Kinh từ pháp âm Phật mà giác ngộ. 2) Bồ tát, là những vị thực hành Bồ tát hạnh phá đại nguyện độ sanhchứng quả. 3) hàng Bích Chi Phật (Duyên Giác) là do tự quán tưởng các pháp từ nhân duyên sanh mà phát sanh, dù có Phật tại thế hay không, các vị Bích Chi Phật vẫn chứng quả, do tự mình quán tưởng, không đắm nhiễm các pháp mà được chứng đắc đạo quả.

[3] Bất tri phi Phật: trong các bản chú giải, chữ bất này bị bỏ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant