Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

09. Ân chúng sanh

05 Tháng Tám 201100:00(Xem: 11314)
09. Ân chúng sanh

HAI CHỮ MẸ CHA
Chân Hiền Tâm
Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 2007

ÂN CHÚNG SANH

Này thiện nam tử! Từ vô thủy kiếp đến nay, tất cả chúng sanh luân chuyển trong 5 đường,[09] trải qua trăm ngàn kiếp, nhiều đời làm cha mẹ của nhau. Vì làm cha mẹ của nhau nên tất cả người nam đều là từ phụ, tất cả người nữ đều là bi mẫu. Trong những đời trước đã có đại ân, không khác với ân cha mẹ hiện đời. 

Đây là Phật giải thích để hiểu vì sao đối với tất cả mọi loài, từ con người cho đến con vật đều có ân với mình. CHÚNG SANH là chỉ cho tất cả mọi loài, ngoại trừ Phật. Vì Phật là một chúng sanh đã thành Phật, nên không gọi chúng sanh nữa mà gọi là Phật. Vì từ VÔ THỦY KIẾP đến nay, là từ cái thuở xa xưa ngút ngàn cho tới bây giờ, mình đã không biết bao lần thay thân đổi dạng. Có khi làm trời, có khi làm người, có khi làm trâu, làm mèo v.v… Trong quá trình làm người và súc vật, muốn có thân đều phải có mẹ cha. Không có công sinh thành thì có công dưỡng dục. Tuy có những bậc cha mẹ ân nghĩa không tròn, bỏ mặt con thơ. Nhưng một khi đã gọi là TỪ PHỤ và BI MẪU, thì dù là một con vật, tình cảm của nó dành cho con không khác con người

Con mèo nhà tôi, không biết từ đâu tới, nhưng mỗi lần sinh con, nó đều chui tọt vào kho đựng đồ. Thấy bóng mình, nó liền nhe răng. Một lần, nó đeo cứng hai chân đức ông nhà tôi bằng mười cái vuốt và cả bộ răng, chỉ vì anh lần vào kho dọn đồ.

Đói bao nhiêu, nó vẫn cho con bú. Hai đứa con càng lớn càng rúc dữ. Nó càng phờ phạc tan thương. Nhìn cái vẻ ẩn nhẫn chịu đựng của nó, mình thấy tình thương nó dành cho con không khác con người. Cơm cũng nhường, thịt cũng chia. Mèo hoang, một năm sinh mấy lượt, mình kham không nổi. Chúng lớn, mình bắt cho người ta. Nhưng nó quên, thì đến giờ cơm nó gọi. Nó nhớ, nửa đêm rảo quanh, rồi lần vào kho tìm kiếm. Tiếng kêu nghe não nuột

Hai con mèo đó, mang cho hay ở lại, nó cũng không biết gì đến ân nghĩa của mẹ mà đền đáp. Đói mà không thích ăn thì rúc vào bú. Bú đến mèo mẹ phát bệnh cũng cứ bú. Lớn chút nữa, vì miếng ăn có khi lại chiến đấu với cả mẹ mình. Nên Phật nói: Ân xưa như thế còn chưa đáp được, có khi nhân nơi vọng nghiệp mà sinh nghịch thuận, do vì chấp trước mà thành oán thù. Nghiệp không phải là thứ có thật. Phải gieo nhân mới có quả, không gieo nhân thì không có quả, nên gọi là VỌNG. Nghiệp đó có thể chuyển đổi, nên gọi là VỌNG NGHIỆP. Như con mèo thì vọng nghiệp là chỉ cho cái nghiệp mèo. Vì gây tạo cái nhân ác ôn nên mới đầu thai làm mèo. Vì bị nghiệp mèo chi phối, nên ngu si tối tăm không biết mẹ mình hy sinh, lo lắng, cực nhọc thế nào, chỉ nghĩ đến miếng ăn của riêng mình. Cũng vì cái nghiệp ngu si đó mà có khi gây ra những việc không đúng. Tranh dành, đánh nhau với mẹ. Nếu mèo mẹ cũng ngu si như mèo con, không biết buông xả như tình mẹ của con người, trở lại oán thù, thì như đây nói “Do chấp trước mà thành oán”. Đó là chỉ ngay kiếp này mà biện. Song nhân quả không phải chỉ có trong một đời mà nối tiếp vô cùng vô tận. Nếu mình không tỉnh giác chấm dứt thì nỗi oán hận cũng vô cùng

Vì sao? Vì vô minh che chướng túc trụ trí minh, nên không rõ đời trước từng là cha mẹ, để báo ân làm lợi ích cho nhau. Không làm lợi ích, gọi là bất hiếu. Vì nhân duyên đó, mọi loài chúng sanh trong tất cả thời đều có đại ân thật khó đền đáp. Việc như thế gọi là ân chúng sanh.

Hỏi VÌ SAO là để giải thích phần trên. 

TÚC TRỤ TRÍ MINH, là chỉ cho túc mạng minh, là cái trí có thể nhờ đó mà ta thấy được các đời trước của mình và người. Người thường tình, vì bị vô minh che ám, không sử dụng được cái trí đó, nên không thể thấy quá khứ của mình. Không thấy được có khi người làm mình bực trong hiện tại lại là cha mình trong kiếp trước, có khi người làm mình khổ trong hiện đời, lại là vợ mình trong những kiếp trước v.v… Mình không thấy được tiền kiếp nên với người làm mình ghét thì mình bực, người làm mình khổ thì mình oán. Từ cái ghét và oán đó mà xảy ra bao chuyện tranh tàn.

ÂN CHÚNG SANH Phật biện trên đây là dựa vào nhân duyên cha mẹ mà biện. Đó là một trong các duyên khiến mình phải mang ân chúng sanh. Còn rất nhiều duyên khác để thấy ÂN CHÚNG SANH rất lớn. Như một việc nhỏ là viết sách đây. Thứ gì thuộc kinh nghiệm bản thân, từ việc đời cho đến việc đạo, mình chỉ cần ngồi viết là được. Nhưng đụng đến kinh kệ, điển tích v.v… thì phải nương nhờ vào rất nhiều người. Khắp năm châu thế giới cũng nên. Cần có tự điển để tra. Cần đĩa vi tính, máy vi tính, người cho tiền in, người bán dùm sách v.v… Phải nhờ không biết công sức của bao người, mới có một cuốn sách. Có sách rồi, lại cảm cái ân những ai đã đọc nó, có một chút hứng thú về nó, để mình có chút công hạnh với đời. Chưa kể chư vị còn đem photo, biếu dùm mình. Có nhiều thứ ân mà mình không hề thấy, không hề biết.

Nếu thuộc kinh nghiệm bản thân, thì ngay cả những người mình nghĩ làm khổ mình, cũng trở thành người ân của mình. Bởi không có các vị đó, bài viết của mình không có giá trị, để người đồng cảnh cảm thông với mình. Thành nhìn tới nhìn lui, đâu cũng thấy ân với nghĩa. Đó chỉ là một chuyện rất nhỏ trong đời sống hiện tại. Còn biết bao cái ân khác, ân thầy cô, anh chị, bạn bè, hàng xóm v.v… không phải chỉ trong kiếp này mà trong vô số kiếp trước cho đến thời vi lai. Vì thế, Phật nói chúng sanh có ân với mình, phải biết báo ân
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19839)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19525)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33408)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34474)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54513)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37717)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21130)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17875)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63637)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17379)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49652)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16862)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16369)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14484)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22447)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 56968)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13834)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29006)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33307)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38375)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31227)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13903)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14614)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14301)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12635)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14808)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19197)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13807)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12654)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30374)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11824)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30646)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29384)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30566)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31193)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37076)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32221)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23643)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12210)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14228)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14081)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 33955)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27709)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12442)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28610)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29344)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12382)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29197)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 27987)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25643)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26008)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22239)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33123)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31796)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39572)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22391)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34446)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27332)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28341)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 35241)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant