Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tương quan giữa Thiền và Tịnh

09 Tháng Tư 201400:00(Xem: 11319)
Tương quan giữa Thiền và Tịnh


Tương quan giữa Thiền và Tịnh


Võ Thị Thanh Thảo

 

Hơn 2500 năm trước, một Vĩ nhân xuất hiện trên đời, trong bối cảnh Ấn Độ đang đắm chìm trong 62 học thuyết ngoại đạo chấp thủ ngã và ngã sở, bị vây bủa bởi chiều dày lịch sử phân chia giai cấp, nhân loại khổ đau, nhưng không tìm ra lối thoát. Sự xuất hiện của Ngài như vầng thái dương toả rạng, phá tan mọi tối tăm của màn vô minh trong đêm dài bất tận. Ngài đã làm một cuộc cách mạng vĩ đại, giải phóng con người thoát khỏi khổ đau. Đó chính là đức giáo chủ Gotama. Ngài xuất hiện trên thế gian này vì lợi lạchạnh phúc của trời và người[1]. Ngài đã để lại một kho tàng giáo lý đồ sộ, là di sản bất sanh bất diệt.

 

TƯƠNG QUAN GIỮA THIỀN VÀ TỊNH 

 Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông. Mục đích tu hành duy nhất của 2 Tông phái này cũng không ngoài bổn nguyện giải thoát sanh tử, lìa khổ được vui.

 Nói về phương pháp để tu hành của Phật giáo thì rất nhiều bao gồm 8 vạn 4 ngàn pháp môn. Chúng ta có thể so sánh các pháp môn như các loài hoa quý, tuy nhiều mùi thơm, lắm sắc đẹp, mà không loài nào không nỡ trong vườn tịnh giới của Đức Phật. Cũng vậy, mặc dù vô lượng pháp môn tu như: Thiền, Mật, Hoa nghiêm, Tịnh Độ…đều thuộc về Đạo Phật. Giống như nước ở trăm sông, ngàn suối khi chảy về biển cả và hòa lẫn với nước biển đồng mang một mùi vị đó là vị mặn. Giáo pháp của Phật cũng thế, dù có vô vàn pháp môn tu nhưng đều đưa đến một mục đíchgiải thoát. Chúng sanh thì đa bệnh, Phật pháp lại đa phương. Vì lẽ đó người viết chọn đề tài: “Sự Tương Quan Giữa Thiền và Tịnh” để làm bài thu hoạch của mình. Tuy nhiên với đề tài này mang tính chất rộng lớn, bao quát nhiều lãnh vực khi nghiên cứu để trình bày được đầy đủ. Do vậy người viết không thể chuyển tải được hết mọi vấn đề, chỉ trình bày theo sự hiểu biết trong khả năng giới hạn của mình. Mong rằng một số kiến thức có được sẽ là thiết thực, hữu hiệu cho con người, góp phần xây dựng ngôi nhà đạo pháp tại thế gian.

 Với đề tài này người viết dựa vào bài giảng của giáo thọ sư kết hợp với những tài liệuliên quan đến đề tài để trình bày những nội dung sau:

  • Khái Quát Về Thiền và Tịnh
  • Sự Tương Quan Giữa Thiền và Tịnh
  • Nhận Định Chung

 Để hoàn thành, người viết dựa vào phương pháp phân tích, bình giảng để trình bày về nội dung. Đồng thời cũng nêu lên vài quan điểm tương đồng của hai pháp môn này để mọi hành giả cùng tham khảo.

 Khái Quát về Thiền và Tịnh

 Thiền là một trong những Nội dung tu tập cực kỳ quan trọng của Phật giáo. Có thể nói, nếu không thực hànhthành tựu thiền sẽ không chứng được tuệ giác, giải thoát

 Theo định nghĩa chung, Thiền: tiếng Phạn là Dhyàna (Pàli: Jhàna), phiên âm là Thiền na, dịch ý là tĩnh lự. Tĩnh là sự yên lặng; Lự là suy tư. Tĩnh lựđình chỉ mọi tư tưởng hay cột tâm ý chuyên chú vào một đối tượng duy nhất. Thiền còn gọi là “tư duy tu”, “khí ác”, tức xả ly tất cả các tâm niệm ác, ngũ triền cái (dục, sân, hôn trầm, trạo cử, nghi) [2].

Thiền định (Samadhi) là phương pháp gom tâm trụ nó vào một đề mục cố định để giữ cho tâm được vắng lặng. Định của thiền địnhtâm sở nhất tâm, trụ tâm nằm trên một đề mục cố định duy nhất. Sự định tâm, chuyên chú này có tác dụng thiêu đốt các nghịch pháp phiền não (Tapo).

 Nội dung cơ bản của Thiền được cư sĩ Hồng Quang định nghĩa giản dị đễ hiểu: “Thiền là tập trung tâm vào một điểm mà không suy nghĩ và một vấn đề nào khác”.[3] Được phân làm 2 loại Thiền Giác Ngộ và Thiền Sức Khỏe.

Tịnh, theo định nghĩa của Tịnh Độ Tông: còn gọi là Liên tông, hoặc Niệm Phật Tông. Lấy ngài Phổ Hiền Bồ Tát làm Sơ Tổ, tông này chủ trương “Niệm Phật vãng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc”. Khi hành giả về cõi này thì không còn luân hồi nữa.[4]

Nay chúng ta muốn tìm hiểu pháp môn này thì phải biết rõ về hai chữ Tịnh Độ nghĩa là gì?

Tịnh: nói đủ là thanh tịnh, tức là không có nhiễm ô, dơ bẩn, đó là ý nghĩa tiêu cực. Về phương diện tích cực, không tạp nhiễm lỗi lầm phiền não, tức là thanh tịnh, đầy đủ công đức, trí huệ.

Độ: là cõi nước, thế giới hay nơi chốn nương tựa chung.

Vậy Tịnh độ là cõi nước thanh tịnh trang nghiêm nơi đó tâm địa chúng sanh không nhiễm ô, không phiền não, luôn an vui tu tập để tiến đến cứu cánh giải thoát viên mãn. Đây là thế giới trang nghiêm vi diệu

Tương Quan giữa Thiền và Tịnh

 Như chúng ta biết, con người ai ai cũng mong ước có một cuộc sống khỏe mạnh ít bệnh hoạn, nhưng không ai tránh khỏi hoạn hoại này. Để có được biện pháp thiết thực cần yếu cho con người đức Phật đã dạy chúng ta một loại linh dược, không tốn tiền mà vô cùng quý giá, đã hơn 2500 năm qua nhân loại chưa biết đến, hoặc đã biết nhưng không chứng minh được lợi ích của loại thuốc này, loại thần dược đó chính là “Thiền và Tịnh” là hai vị thuốc nếu khéo tác hợp nó sẽ cho ra kết quả vô cùng hữu hiệu.

 Nói đến tu Tịnh và tu Thiền, bề ngoài nghe dường như mâu thuẫn, song bên trong đã đồng nhất không sai biệt, để dung hoà hiện thực với siêu nhiên.

 Nếu Thiền định là lắng đọng tư duy, và tập trung tư tưởng, không để cho niệm lự dấy lên, và thắp sáng ngọn đèn chánh niệm, để duy trì thường trực tính năng biết nhiệm mầu hay tri kiến của mình, thì người tu Tịnh độ lúc nào cũng ở trong Thiền, vì hành giả luôn luôn ở trong tĩnh lặng của Thiền. Ý của hành giả không đuổi theo trần cảnh và tâm của người này nhiếp câu niệm Phật trong định thì chúng ta đã dung hòa giữa Thiền và Tịnh song tu thì càng hiệu nghiệm hơn.

 Trong xã hội hiện nay, theo như trong kinh điển gọi là thời mạt pháp, có rất nhiều chướng duyên, đã mang thân người không ai tránh khỏi những căn bịnh hiểm nghèo khó vượt qua lưỡi búa của tử thần, khiến cho con người thường hay lo sợ, hải hùng hay thối mất chí nguyện hướng thiện và hướng thượng của mình, con người phần nhiều mang nặng những căn nghiệp tham, sân, si từ vô thỉ kiếp, khi gặp những tình huống căng thẳng trong cuộc sống giao tiếp ngoài xã hội, thường mắc phải những cảnh trái ý nghịch lòng, liền sanh tâm sân hận, lo âu phiền muộn luôn mong cầu sự trợ lực của những bậc thần linh, cho nên có thể nói rằng tu tập pháp môn Niệm Phật cầu sự gia trì của chư Phật là phương pháp rất gần gủiphù hợp, làm cho con người có được niềm tin trong cuộc sống.

Mặt khác, qua sự nghiên cứu của các học giả cho thấy: con người khi tinh thần bị khủng hoảng hay giận hờn, cơ thể tiết ra những hóa chất và được dẫn vào đường máu để gia tăng sự đối kháng. Lúc đó người bị căng thẳng có các triệu chứng như: Thở mạnh, nhịp tim đập nhanh, nhức mỏi…Các phản ứng vật lý vừa kể nhằm đẩy mạnh khả năng của người lúc cơ thể bị đe dọa. Tuy nhiên, cơ thể con người thường không có lối thoát cho những năng lượng dư thừa. Vì thế, việc đầu tiên mà con người chống lại stress (căng thẳng) là, tạo điều kiện cho cơ thể thư giản trở lại bằng cách lắng đọng tâm tư, thở nhẹ nhàng, thiền giúp con người vượt qua sự căng thẳng của cơ thể sẽ được thư thái.[5] “Thiền còn giúp chúng ta chữa được bệnh, chống lão hóa, làm cho con người đẹp hơn, thông minh hơn, khỏe mạnh hơn, sống có hạnh phúc hơn..”.[6]

Thế nên, khi tìm hiểu kỷ chúng ta đã có một kết quả khả quang hơn là, giao điểm giữa Thiền và Tịnh có thể giúp cho hành giả càng vững vàng trên tiến trình thực tập ở chổ: Trước hết, người niệm Phật sẽ có được sự an lạc, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại. Ngay trong lúc chúng ta chuyên tâm trì niệm Hồng danh Đức Phật A Di Đà, tâm không còn chạy theo những ý niệm bất thiện tức là cần có (định tâm), những tư tưởng loạn động không còn bị những tâm niệm tham lam, sân hậnsi mê quấy nhiễu. Tâm của chúng ta ví như một căn phòng, và trì niệm Hồng danh Đức Phật là thắp lên trong căn phòng tâm thức của chúng ta một ngọn đèn, khi ánh đèn sáng tỏ đã được thắp lên thì bóng tối trong gian phòng ấy sẽ tự nhiên bị đẩy lùi, bị tiêu mất. Hơn nữa, khi ta niệm Phật thì tâm trí không còn nhớ nghĩ đến những điều xấu xa (điều phục tâm), miệng và thân không tạo ra nghiệp ác. Một giờ niệm Phật, là một giờ không tạo nghiệp bất thiện; một ngày chuyên niệm Phật, thì trong ngày đó chúng ta tránh được các nghiệp ác. Không tạo các nghiệp ác cũng đồng nghĩa là tâm không bị giày vò bởi những lo âu, phiền muộn. Mà lo âu phiền muộn chính là nguồn gốc phát sanh bệnh. Do đó, Thiền và Tịnh như các đạo tràng thường hành thì chỗ đồng hành gặp nhau không có ranh giới.

Đạo Phật có muôn ngàn pháp môn, tượng trưng có 2 pháp môn Thiền và Tịnh là phổ biến hơn cả. Các pháp môn Niệm Phật như con mọt đục ống tre từng mắt mà lên, còn pháp môn ngồi thiền định tâm như con mọt đục ngay mình tre mà ra. Tuy hai phương pháp đều đưa con mọt ra khỏi ống tre cả, nhưng phương pháp Thiền kết quả mau chóng hơn các phương pháp khác.Chính vậy, Tịnh Độ tôngThiền tông hiện nay là hai Tông phái được phổ biến rộng rãi nhất và cũng được nhiều Tông phái khác phổ biếnhành trì.

- Tịnh độ thì chú trọng vào niềm Tin của cá nhân và sự cứu độ của Đức Phật A Di Đà. Pháp tu chủ yếu là chú tâm chuyên nhứt vào niệm danh hiệu Phật A Di Đàquán tưởng đến thế giới Cực lạc. Cho nên nói Tu Tịnh độ (thuần tuý) là hướng về ngoại cảnh hay hành Pháp tướng, nương vào Tha lực bằng cách niệm danh hiệu Phật A Di Đà, để trút bỏ phiền não, nhiễm ô, mong đạt tới sự an lạc ngay trong hiện tại thân được nhẹ nhàng khinh an sẽ giảm thiểu được các căn bịnh. Tâm không suy nghĩ sằng bậy thì tâm không bị nhiễm ô, hiện tại thân khỏe tâm an và tương lai chứng đắc Niết bàn Tịnh độ.

 - Thiền định cũng vậy, là một phương cách giúp tinh thần được thư dãn. Hai phương pháp luyện tập này có những điểm tương đồng với nhau, nhưng Thiền tập đi sâu vào trạng thái tâm linh, nội tại của con người hơn là những bài luyện tập về thể lực. Thiền định là hướng về nội tâm, hành Pháp tính, dựa vào Tự lực, quán sát tự tính để diệt trừ chúng sinh tính trong lòng mình, mong cho tâm tỏ ngộ.

Trong nhiều pháp môn tu có thể nói Thiền Tịnh Song Tu là một phương pháp kết hợp mật thiết dễ hành trì, và hành giả có thể cảm nhận được sự lợi ích từ pháp tu của mình ngay trong hiện tại cũng như trong tương lai. Trong bài Niệm Phật luận, Trần Thái Tông viết “Ư niệm Phật thì chánh thân đoan toạ, bất hành tà hạnh, thị tức thân nghiệp dã. Khẩu tụng chân ngôn, bất đạo tà ngữ, thị tức khẩu nghiệp dã. Ý tồn tinh tiến, bất khởi tà niệm, thị tức ý nghiệp.” [7] (Trong lúc niệm Phật thân thẳng ngồi ngay, không làm việc tà, như vậy là tắt được nghiệp thân, Miệng tụng lời chân chính, không nói điều xằng bậy, thế là tắt được nghiệp miệng (định thân). Ý chăm chú ở sự tinh tiến, không nảy sinh ý nghĩ tà, thế là tắt được nghiệp ý (định tâm). Công năng niệm Phật là thế, nhưng phương thức hành trì của mỗi đối tượng dựa trên sự phân chia căn trí cao thấp.

Qua thực tế cho thấy, sự căng thẳng thiếu cân bằng của cơ thể và tâm hồnnguyên nhân chính tạo ra bệnh và lây lan những bệnh khác. Tâm có thể tạo ra bệnh thì tâm cũng có công năng chữa lành bệnh. Học cách hành thiền và niệm danh hiệu Phật có thể làm cho Thân tâm quân bình. Đồng thời, cải thiện được sức khỏetinh thần của con người được ngày một phấn chấn hơn.

Người con Phật chẳng những là người y pháp tu họccần phảitư tưởng trạch pháp, trong vô lượng pháp môn tu bao gồm 8 vạn 4 ngàn pháp môn, nhưng chúng ta có quyền dung hợp những phương pháp nào hợp với căn cơtrình độ của mình, mới có thể đưa đến hạnh phúc an lạc trong hiện tại thân khỏe tâm an và giải thoát trong tương lai, thì không thể không tham cứu kỷ càng về hai pháp môn Thiền và Tịnh. Vì đây là chiếc chìa khóa vạn năng giúp chúng ta thông suốt trong quá trình tu tập giải thoát.

Ngoài việc ngồi thiền và niệm danh hiệu Phật, chúng ta cần kết hợp phương pháp tập thể dục, chế độ ăn uống hợp lý.

 Thiền và thuốc song hành có lẽ là giải pháp tốt nhất. Ngoài những yếu tố vừa đưa ra, con người thường bệnh là vì có thêm sự rối rắm, bất ổn trong tâm của mình, do đó tập ngồi Thiền chuyên tâm vào câu niệm Phật là cách để giúp mình hồi phục lại được sự yên tỉnh, êm lắng và hài hoà trong tâm.

Thiền có thể giúp cho mình có sự sáng suốt, giúp giải toả những căng thẳng, lo lắng, bất an trong con người, giúp mình vượt qua những ám ảnh về tâm lý gây ra bởi những biến cố, những chấn thương mà mình đi qua trong quá khứ, hoặc có thể hoá giải những thói quen tiêu cực trong chính bản thân mình – những cách suy nghĩ, những cảm xúc tiêu cực, hoặc cách mình ứng xử với người khác.

Niệm danh hiệu Phật giúp chúng ta cột tâm vào một đối tượng chuyên chú nhứt tâm không dấy niệm bất cứ việc gì ngoài câu niệm Phật, tâm không khởi loạn tưởng chạy theo trần cảnh thì không có tham, sân, si. Tâm không còn tham, sân, si thì còn gì hạnh phúc hơn.

Vậy muốn có một cuộc sống an lạc hạnh phúc chúng ta cần phối hợp giữa Thiền và Tịnh. Cổ nhân dạy:

 "Có Thiền không Tịnh độ, mười người chín chần chừ, ấm cảnh nếu hiện tiền, chớp mắt đi theo nó”[8]:

“Người tu Tịnh độ mà không tham Thiền, muôn người tu, muôn người được vãng sanh (nếu nhất tâm).

“Có thiền có tịnh độ, khác nào cọp mọc sừng, hiện đời làm thầy người, đời sau làm Phật, Tổ"[9].

Nghĩa là lối tu niệm Phật đã chắc chắn rồi, mà còn tham Thiền, lại càng chắc chắn hơn nữa ( 2023).



[1] Thích Chơn Thiện, Tăng Già Thời Đức Phật, Hà Nội: Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, 2000, trang 45

[2] Ban Hoằng Pháp, Báo Giác Ngộ số 350. 12-10-2006. Thiền Chỉ & Thiền Quán. Tr 14.

[3] Hồng Quang, Thiền Và Những Lợi Ích Thiết Thực, Xuân 2013, tr 5

[4] Trần Nghĩa Hiếu, Từ Vựng Phật Học, NXB: Phương Đông, Tr 875

 [5] Hồng Quang, Thiền Và Những Lợi Ích Thiết Thực, Xuân 2013, Tr 13

[6] Sdd, tr 41

[7] Viện Văn Học, Thơ Văn Lý Trần, tập 2, Nxb. KHXH, HN, 1989, tr.84.

[8] Ấn Quang Đại Sư Gia Ngữ Lục, NXB Tổng hợp TPHCM, Năm 2006, Tr 318.

[9] Sđd, tr 316.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11060)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 9543)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 10425)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 12033)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9697)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10217)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10231)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19136)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14599)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 24288)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15350)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10339)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 21401)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10234)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19241)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 11354)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 18682)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 9272)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 15903)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 25639)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37863)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19578)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18657)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14254)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20091)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9496)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14365)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35558)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10649)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19695)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23194)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13357)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 20200)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10597)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9611)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 9194)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8490)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9755)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11203)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8293)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 14081)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9905)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15200)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12565)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 12075)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11035)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36401)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8957)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 17259)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10467)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12196)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13629)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 9143)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24798)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11631)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10310)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 14514)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12996)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12441)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 9565)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant