Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Pháp Quán Niệm Hơi Thở Theo Bài Kinh Tứ Niệm Xứ

12 Tháng Chín 201519:23(Xem: 10891)
Pháp Quán Niệm Hơi Thở Theo Bài Kinh Tứ Niệm Xứ

PHÁP QUÁN NIỆM HƠI THỞ
THEO BÀI KINH TỨ NIỆM XỨ


Thích Giác Chinh

Quan Niem hoi Tho

 

Giới thiệu: Bài Pháp thực hành Thiền Quán Niệm hơi Thở theo 16 Pháp quán niệm hơi thở của Đức Phật được hướng dẫn và thực tập tại Thiền Viện Pháp Thuận - Dharma Meditation Temple 2014-2015; xin trân trọng giới thiệu đến đọc giả và thân hữu gần xa.

 

1.         Pháp Quán niệm hơi thở

Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm; bốn lĩnh vực quán niệm nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ làm thành tựu bảy yếu tố giác ngộ; bảy yếu tố giác ngộ nếu được phát triển và thực tập liên tục sẽ đưa tới trí tuệgiải thoát.

Các bước thực tập thiền quán niệm hơi thở có thể được ứng dụng vào đời sống hàng ngày trong mọi lúc, mọi nơi như đi, đứng, nằm, ngồi. Là nền tảng của chánh niệm, tự dohạnh phúc.

Trong đời sống hằng ngày, Đức Phật thường tu tập phương pháp quán niệm hơi thở này trong hầu hết thời giờ của ngày và đêm.

Nhờ sống trong tu tập phương pháp này mà thân thể và đôi mắt không hề mệt nhọc; nhờ kết quả ấy mà tâm giải thoát các khổ, phiền nãođạt được hạnh phúc.

Khi thực tập, định sẽ có mặt do quán hơi thở, khi được tu tập, được làm cho sung mãn, là an tịnh và cao thượng, là trú xứ an lạc vô nhiễm, loại trừ và làm cho an tịnh các tư duy bất thiện ngay khi chúng khởi lên.

Làm thế nào để phát triển và thực tập liên tục phép quán niệm hơi thở, để phép này mang lại những thành quảlợi lạc lớn?

Nếu thiền sinh không thể định tâm bằng cách theo dõi hơi thở vô ra, thì có thể tập cách đếm hơi thở như sau: Hít vô-thở ra đếm một, hít vô-thở ra đếm hai…, cứ như thế đếm cho tới mười rồi trở lại một. Thực tập như vậy một hồi lâu, tâm sẽ an định. Khi tâm đã an định, thiền sinh trở lại theo dõi bốn biểu hiện của hơi thở: vô, ra, dài, ngắn, hoặc toàn luồng hơi thở.

Không chuyển sự chú tâm theo dõi từ hơi thở sang các đề mục khác, ở đây, mục đích chính của niệm hơi thở là để an trú tâm và để đạt đến sự an định.

Đừng lo lắng, thiền sinh chỉ cần làm một việc duy nhất đó là tác ý (khởi niệm) cảm nhận toàn thânhơi thở, hoặc là tác ý có sự quyết tâm đạt đến sự an tịnh của hơi thởthân tâm. Trong lúc tác ý vẫn duy trì sự chú tâm theo dõi hơi thở. Nên nhớ, Thiền sinh phải giữ chánh niệm liên tục trên đối tượng chính là hơi thở.

Một khi từ bỏ năm triền cái [(1. Tham dục (kamachanda), 2. Sân hận (vyapada), 3. Hôn trầm (thiramiddha), 4. Trạo cữ (udhaccakukucca), 5. Nghi ngờ (vicikiccha)] và duy trì được sự an định này trong khoảng thời gian đủ dài thì thiền sinh sẽ vào Cận định (upacāra); và sẽ vào An chỉ định (appanā) khi đã làm cho sung mãn (phát triển dồi dào) năm thiền chi: tầm (duy trì tỉnh thức nơi đối tượng), tứ (an trú vững chắc nơi đối tượng), hỷ (hân hoan, vui mừng), lạc (an lạc), và nhất tâm (an định).

2.         Thực hành

Chuẩn Bị Tư Thế Ngồi Thiền

Điều chỉnh Thân thể:

Khi thực hành, thiền sinh có thể ngồi xếp bằng kiết già, bán già, hoặc ngồi trên ghế thả hai chân xuống đất nhưng phải ngồi thẳng lưng để cho cột sống thẳng hàng. Hai bàn tay xếp bằng, gác trên chân ngay dưới bụng hoặc để trên hai đầu gối. Tư thế ngồi phải vững chãi, thảnh thơi, và an lạc.

Điều chỉnh hướng Tâm:

Tập trung sự chú ý (chú tâm) của bạn vào điểm xúc chạm của hơi thở tại vùng cửa mũi hay môi trên. chỉ nên định tâm vào hơi thở. Hơi thở chạm xúc vào lỗ mũi hay môi trên là nơi dễ theo dõi nhất. Nếu cảm thấy khó chịu hay căng thẳng, có thể chuyển sự chú tâm vào vùng dưới rốn hoặc để tâm ngay trước mặt. Ở đây, chúng ta chỉ quán niệm vào hơi thở, hơi thở có chạm xúc, mà không quán vào sự chạm xúc. Quán niệm hơi thở nầy cần có một chánh niệm vững mạnh và có tuệ giác.

Sự chú tâm trong lúc ngồi thiền phải đầy đủ ba yếu tố của chánh niệm đó là: tỉnh thức (awareness), chú ý (attention), và tỉnh giác (alertness).

Thiền sinh cần phải cương quyết không để phóng tâm, tâm lang thang chỗ nầy chỗ kia, trong khi đếm hơi thở. Chỉ chú tâm theo dõi hơi thở.

Bây giờ ta đem tâm vào hơi thở: hơi thở vào và hơi thở ra.

Thực tập và chế tác Hơi thở:

Khi thở có sự chú tâm, thiền sinh để hơi thở vô, ra tự nhiên; không cố làm cho hơi thở dài thêm hai ngắn lại. cần phải Thở một cách đều đặn, nhẹ nhàng và để cho hơi thở tự nhiên. Ghi nhớ và chú tâm vào hơi thở là đối tượng duy nhất trong suốt thời gian hành thiền. Nếu bị phóng tâm, Thiền sinh phải cố gắng tỉnh thức và đem tâm trở về an trú trên đối tượng thiền bằng cách theo dõi luồng hơi thở vô ra và dán chặt tâm nơi điểm xúc chạm ở cửa mũi hay ngay điểm dưới rốn ở bụng.

Không nên đem tâm đi theo luồng hơi vào trong thân thể hay chạy ra ngoài thân thể. Nếu thiền sinh để tâm theo dõi luồng vào trong thân hay ra ngoài thân thì sẽ không thể làm hoàn hão sự định tâm. Cần phải chú tâm ghi nhận hơi thở.

Nếu thiền sinh hành trì như thế trong một hay hai giờ thì định tướng có thể sẽ phát sinh. Từ từ hơi thở sẽ tự nó trở nên dịu dàng, nhẹ nhàng, nhu nhuyễn. Hơi thở là cội gốc của chánh niệmhạnh phúc, vì vậy thiền sinh không nên cố tình ép hơi thở để nó nhẹ nhàng. Bởi vì nếu làm như thế thì chẳng bao lâu, bạn sẽ bị hụt hơi và tạo mệt nhọc, để sinh ra thất niệm (không có chánh niệm). Khi hơi thở tự nó trở nên nhẹ nhàng và tâm an định đi theo sau nó, qua thiền lực này, hầu hết các thiền sinh sẽ cảm thấy lâng lâng, thư thái như thể là họ không có mặt mũi, không có thân nữa, mà cảm thấy chỉ có hơi thở vào ra nhẹ nhàng và một cái tâm đang theo dõi nó.

Dần dần, nếu giữ tâm được an định vào hơi thở thì việc luyện tâm thiền định chỉ hoàn tất khi nào tâm quán niệm được giữ tại nơi mà hơi thở chạm xúc với cơ thể. Khi thiền sinh chú định vào bên ngoài, xa lìa nơi chạm xúc, thì rất khó mà đạt vào tầng thiền định.

Nếu tâm vẫn giữ an định và chỉ chú mục vào định tướng của hơi thở khoảng 1 đến 2 giờ, hầu hết các thiền sinh đều có thể nhận rõ 5 thiền chi (jhananga) rất dễ dàng nếu họ phân tích chúng lúc đó. Năm thiền chi đó là:

1.         Tầm (vitakka): đem tâm hướng về định tướng,

2.         Tứ (vicara): bám sát vào định tướng,

3.         Hỷ (pity): ưa thích định tướng,

4.         Lạc (sukha): cảm giác an lạc, hạnh phúc khi tiếp xúc với định tướng,

5.         Nhất tâm (ekaggata): tập trung tâm về một điểm (đó là định tướng)

Cũng cần biết thêm ở đây là có khi thiền sinh không thể nhận rõ được năm thiền chi trên, là vì lúc đó thiền sinh vẫn còn bị các triền cái (nivarana) ngăn che. Các Triền cái đó là:

1.         Tham dục (kamachanda)

2.         Sân hận (vyapada)

3.         Hôn trầm (thiramiddha)

4.         Trạo cữ (udhaccakukucca)

5.         Nghi ngờ (vicikiccha)

Thiền sinh phải xét duyệt từng triền cái một, để xem chúng còn vương vấn trong tâm trong lúc hành thiền hay không. Chúng cần phải được loại bỏ thì việc đắc thiền mới thành tựu.

3.         Các Bước Thực Tập Thiền Căn Bản

3.1.      Bước một:

Biết rõ: Hơi thở vô, ra, dài, ngắn.

Thiền sinh chỉ đơn thuần theo dõinhận biết rõ ràng hơi thở:

•           Hơi thở vô dài hoặc Hơi thở ra dài, nhận biết chúng.

•           Hơi thở vô ngắn hoặc hơi thở ra ngắn nhận biết chúng.

Ở đây, Thiền sinh chỉ cố gắng biết rõ bốn biểu hiện của hơi thở: vô, ra; dài, ngắn. Phải biết rõ các biểu hiện của từng hơi thở một cách cụ thể để giữ tâm tỉnh thức, không tán loạn (suy nghĩ lung tung) và đạt đến sự định tâm.

Khi tâm trở nên yên tịnh, không còn phóng tâm nữa và hơi thở trở nên nhẹ nhàng, bạn có thể chuyển qua bước hai kế tiếp.

3.2.      Bước hai:

Cảm giác toàn thân hơi thở vô; Cảm giác toàn thân hơi thở ra.

Cố gắng chú tâm nhận biếttoàn thể hơi thở, bao gồm: điểm đầu, giữa, cuối của hơi thở vô. Ghi nhận toàn thể luồng hơi thở một cách rõ ràng. Nhận biết luồng hơi thở vô ra một cách trọn vẹn.

3.3.      Bước Ba:

An tịnh thân hành, tôi thở vô; An tịnh thân hành, tôi thở ra.

Tiếp tục chú tâmduy trì chánh niệm, tỉnh giác về hơi thở một cách liên tục với quyết tâm làm cho hơi thở, thân, và tâm trở nên an tịnh, có mặt trong lúc thực tập.

4.         16 Đề Mục Thiền Quán niệm hơi thở (Theo Kinh Satipaṭṭhāna-sutta)

4.1.      Thân niệm xứ:

1. Thở vào một hơi dài, người ấy biết: Ta đang thở vào một hơi dài. Thở ra một hơi dài, người ấy biết: Ta đang thở ra một hơi dài.

2. Thở vào một hơi ngắn, người ấy biết: Ta đang thở vào một hơi ngắn. Thở ra một hơi ngắn, người ấy biết: Ta đang thở ra một hơi ngắn.

3. Ta đang thở vào và có ý thức về toàn thân ta. Ta đang thở ra và có ý thức về toàn thân ta. Người ấy thực tập như thế.

4. Ta đang thở vào và làm cho toàn thân an tịnh. Ta đang thở ra và làm cho toàn thân an tịnh. Người ấy thực tập như thế.

4.2.      Thọ niệm xứ:

5. Ta đang thở vàocảm thấy mừng vui. Ta đang thở racảm thấy mừng vui. Người ấy thực tập như thế.

6. Ta đang thở vàocảm thấy an lạc. Ta đang thở racảm thấy an lạc. Người ấy thực tập như thế.

7. Ta đang thở vào và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta. Ta đang thở ra và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta. Người ấy thực tập như thế.

8. Ta đang thở vào và làm cho những hoạt động tâm ý trong ta được an tịnh. Ta đang thở ra và làm cho những hoạt động tâm ý trong ta được an tịnh. Người ấy thực tập như thế.

4.3.      Tâm niệm xứ:

9. Ta đang thở vào và có ý thức về tâm ý ta. Ta đang thở ra và có ý thức về tâm ý ta. Người ấy thực tập như thế.

10. Ta đang thở vào và làm cho tâm ý ta hoan lạc. Ta đang thở ra và làm cho tâm ý ta hoan lạc. Người ấy thực tập như thế.

11. Ta đang thở vào và thu nhiếp tâm ý ta vào định. Ta đang thở ra và thu nhiếp tâm ý ta vào định. Người ấy thực tập như thế.

12. Ta đang thở vào và cởi mở cho tâm ý ta được giải thoát tự do. Ta đang thở ra và cởi mở cho tâm ý ta được giải thoát tự do. Người ấy thực tập như thế.

4.4.      Pháp niệm xứ:

13. Ta đang thở vàoquán chiếu tính vô thường của vạn pháp. Ta đang thở raquán chiếu tính vô thường của vạn pháp. Người ấy thực tập như thế.

14. Ta đang thở vàoquán chiếu về tính không đáng tham cầu và vướng mắc của vạn pháp. Ta đang thở raquán chiếu về tính không đáng tham cầu và vướng mắc của vạn pháp. Người ấy thực tập như thế.

15. Ta đang thở vàoquán chiếu về bản chất không sinh diệt của vạn pháp. Ta đang thở raquán chiếu về bản chất không sinh diệt của vạn pháp. Người ấy thực tập như thế.

16. Ta đang thở vàoquán chiếu về sự buông bỏ. Ta đang thở raquán chiếu về sự buông bỏ. Người ấy thực tập như thế.

5.         Kết quả và lợi ích

Thực tập thiền định bằng phương pháp Quán niệm hơi thởphương pháp đi thẳng vào tâm thức bằng nghị lựcý chí của chính mình. Ta chỉ việc ngồi xuống, và cứ ngồi yên đấy, có nghĩa là ta bỏ ra ngoài tất cả những gì trong đầu, chỉ trừ cái ý thức tỉnh giác về sự ngồi thiền của mình mà thôi.

Nghe thì có vẻ rất là giản dị, đơn giản nhưng thật ra là rất khó. Nếu bạn không tin cứ thử ngồi xuống thực hành trong giây lát đi, bạn sẽ hiểu những gì tôi và chính tâm ý của các bạn nói.

Những tư tưởng tạp nhạp, ồn ào trong đầu đều bị hạn chế, hành giả đem tâm ý mình tập trung vào một đề mục duy nhất đó là hơi thở. Thiền định có một giá trị rất cao trị liệu và chế tác hạnh phúc rất cao. Thiền định ở mức độ cao nó còn có cộng thêm một yếu tố mới, và được nhấn mạnh hơn, đó là yếu tố tỉnh giác. Kết quả là một sự tĩnh lặng sâu sắc, những hoạt động tâm sinh lý chậm lại, với một cảm giác rất an vui và khỏe khoắn, dồi dào sự tỉnh giác và đầy trí tuệ quang minh.

Theo như Kinh Tứ Niệm Xứ được Đức Thế Tôn tuyên thuyết, Thì Bốn lĩnh vực quán niệm nếu được phát triển và thực tập liên tục sẽ đưa bảy yếu tố giác ngộ đến chỗ thành tựu viên mãn. Bảy yếu tố giác ngộ, nếu được phát triển và thực tập liên tục, đưa đến sự thành tựu viên mãn của trí tuệgiải thoát. Nếu hành giả tu tập theo bảy yếu tố giác ngộ, một mình tĩnh cư, chuyên quán chiếu về tính cách không sinh diệt của vạn phápquán chiếu về sự tự do,  thì sẽ đạt tới khả năng buông bỏ. Đó là do tu tập bảy yếu tố giác ngộthành tựu viên mãn được trí tuệgiải thoát. Đó là những điều Đức Thế Tôn nói.

Trên thực tế, khi thực tập theo phương pháp Quán niệm hơi thở thì hành giả cần phải hết sức tỉnh giác và sức niệm và định lực vững vàng thì  khi năm thiền chi đều cùng hiện diện đầy đủ, một các rõ ràng, không vọng động thì thiền sinh sẽ thấy ngay là mình đang vào tầng thiền thứ nhất (Đệ nhất thiền), với tợ tướng là đề mục trong tâm, có tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm.

Tiếp tục hành trì trong Thiền thứ nhất như thế cho đến khi xuất thiền và duyệt lại năm thiền chi cho tường tận thì thiền sinh có 5 sự thuần thục trong tầng thiền thứ nhất. Đó là:

1.         Thuần thục phân biệt: phải thuần thục trong việc phân biệt các thiền chi sau khi xuất thiền

2.         Thuần thục nhập định: phải thuần thục nhập thiền bất cứ lúc nào mà mình muốn

3.         Thuần thục quyết tâm: phải thuần thục giữ mức thiền trong suốt thời gian mà mình đã định trước

4.         Thuần thục xuất định: phải thuần thục xuất ra khỏi tầng thiền mỗi khi mình muốn

5.         Thuần thục xét duyệt: phải thuần thục xét duyệt các thiền chi một cách rõ rang.

Trong Thiền thứ nhất, các thiền chi Tầm và Tứ không an định và vững Niệm (sự chú tâm) bằng tầng thiền thứ nhì. Vì thế, theo như phương pháp Quán niệm của Kinh Tứ Niệm Xứ thì hành giả từ ước muốn rời bỏ hai thiền chi nầy và chỉ còn giữ thiền chi Hỷ, Lạc, Nhất Tâm, rồi thiền sinh tiếp tục đem tâm vào tợ tướng. Làm như thế, thiền sinh sẽ có thể đạt vào tầng Thiền thứ nhì, trong Thiền thừ nhì vốn chỉ còn ba thiền chi: Hỷ, Lạc, và Nhất Tâm. Sau khi vào được Nhị Thiền, thiền sinh hành trì năm loại thuần thục tương tự như trên.

Trong một quá trình của thiền có sức định và thực tập trong một thời gian dài, sau đó thiền sinh nhận thức rằng Hỷ cũng không đem lại an định, nên có ước muốn bỏ Hỷ, chỉ còn giữ lại Lạc và Nhất Tâm, thiền sinh tiếp tục đem tâm vào tợ tướng. Làm như thế, thiền sinh sẽ có thể đạt vào tầng Thiền thứ ba như bài Kinh Tứ Niệm Xứ Đức Thế Tôn đã chỉ bày. Trong mức Thiền thứ ba vốn chỉ còn lại hai thiền chi: Lạc, và Nhất Tâm. Sau khi vào được Tam Thiền, thiền sinh hành trì năm loại thuần thục tương tự như trên.

Cũng theo Kinh nghiệm của Đức Thế Tôn dựa trên bài Kinh Tứ Niệm Xứ, thì hành giả cần nhận thức rằng nếu cứ duy trì Lạc thì lại là một hình thức tham thủ, cố chấp vào cảm giác vui sướng do thiền sinh ra. Cho nên, với ý định bỏ Lạc, thiền sinh tiếp tục đem tâm vào tợ tướng. Làm như thế, thiền sinh sẽ có thể đạt vào tầng Thiền thứ tư. Theo như kinh nghiệm này, thì lúc đó hai thiền chi mới sẽ sinh ra đó là: Xả và Niệm, thay thế cho Nhất Tâm. Đức Thế Tôn khéo léo dạy chúng ta rằng: Lúc bấy giờ, thiền giả ở trong trạng thái “xả niệm thanh tịnh” (Theo như Kinh Tứ Niệm Xứ), không còn câu chấp vào các cảm giác, dù là cảm giác lạc thọ hoặc là khổ thọ hoặc là không lạc không khổ; và lúc này hơi thở trở nên nhẹ nhàng, các cảm giác hầu như tan biến. Tợ tướng trở nên rõ ràng, tròn sáng, quen thuộc, gần gũi, không xa lạ, và thiền sinh chú mục vào đó một cách nhẹ nhàng, bình thản, an tịnh. Sau khi vào được Tứ Thiền, thiền sinh hành trì năm loại thuần thục tương tự như trên thành tựu được chánh tuệ trian tịnh.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43705)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 53030)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 24838)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 37942)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24690)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21758)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 21028)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 27721)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 38959)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25478)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14001)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 8461)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 30434)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 37930)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20010)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 15432)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 38560)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 13240)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17401)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 12284)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13724)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 12918)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12804)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14085)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 21030)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 13758)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 16939)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12530)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30625)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 14529)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 12980)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 20196)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant