Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Những Phương Tiện Nội Tại Của Thiền

11 Tháng Mười 201507:41(Xem: 9286)
Những Phương Tiện Nội Tại Của Thiền

NHỮNG PHƯƠNG TIỆN NỘI TẠI CỦA THIỀN

Tuệ Thiện

 

Những Phương Tiện Nội Tại Của ThiềnHãy nghe ĐỨC PHẬT định nghĩa về thiền : « Ở đây nầy các Tỳ Kheo, vị tỳ kheo đi đến khu rừng dưới một gốc cây hay đi đến chỗ nhà trốngngồi kiết già lưng thẳng, vị tỳ kheo an trú trong nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệmquán Thân trên thân, quán Thọ trên các cảm thọ, quán Tâm trên tâm, quán Pháp trên pháp » trong bài kinh Niệm Xứ (Sattipatthana sutta) đức Phậtgiải thích thế nào là THẦN, THỌ, TÂM, PHÁP và Đức Phật nhấn mạnh nhiều lần « Vị tỳ kheo khi ấy an trú trong nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời ».

Đồng thời Ngài lập đi lập lại : « Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân ; hay sống quán thân trên ngoại thân ; hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. »

Rồi đức Phật cũng lập lại y như vậy cho THỌ, TÂM, PHÁP.

(Kinh Niệm xứ, TRUNG BỘ KINH,10)

NHẬN XÉT :

  1. Điều kiện bền ngoài: Khung cảnh yên tịnh.
  2. Những phương tiện bên trong: nhiệt tâm (tinh tấn cố gắng), tỉnh giác (sáng suốt), chánh niệm (chú tâm).
  3. Những đối tượng để chú tâm quan sát: THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP.
  4. Mục đích giải trừ phiền não : tham, sân, si
  5. Đem áp dụng thiền vào cuộc sống (sống thiền)

Trong định nghĩa trên, quan trọng nhất là những yếu tố nội tại : nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm.

  1. 1.    Nhiệt tâm là động lực, năng lực, sự cố gắng ( l'énergie, l'effort )
  • sự cố gắng ở bên ngoài khiến chúng ta thu xếp thời giờ để có thời gian hành đạo, khiến chúng ta 5-6 giờ sáng lồm cồm thức giấc, đặt mình trong tư thế thiền, trong khi những người khác đang triền miên trong giấc điệp; nó cũng khiến chúng ta đều đặn liên tục không bỏ dỡ con đường tu tập.
  • Sự cố gắng ở bên trong là nổ lực duy trì sự chú tâm, giác tỉnh trên đề mục, không lơ đểnh phóng tâm, nó gìn giữ một mức độ năng lượng (degré énergétique) cần thiết để tâm có thể duy trì liên tục trên đề mục. Khi chúng ta bị mệt mõi tinh thần, sự chú tâm sẽ yếu kém, chúng ta trở nên lơ đễnh, hay quên, không tập trung tinh thần được. Một người bị bịnh thần kinh suy nhược (dépression nerveuse) thiếu mất hoàn toàn chức năng nầy nơi tâm.

      Để dễ hiểu chúng ta lấy một ví dụ : một người đang đọc sách trước khi ngủ, anh cảm thấy bắt đầu buồn ngủ, chữ nghĩa bắt đầu nhảy múa trước mắt, đọc câu sau quên câu trước ; nhưng vì cái chương nầy trong sách quá hấp dẫn, anh muốn đọc cho hết, lúc đó anh phải tăng cường sự cố gắng ở trong tâm để đọc cho hết chương. Đó chính là sự nhiệt tâm, nó rất cần thiết cho thiền.

  1. 2.    Niệm :

Tiếng Pali là Sati, tiếng Pháp là attention. Niệm là ý thức, nhận biết, nắm bắt một đối tượng khi nó lọt vào 6 cửa là mắt, tai, mũi, lưởi, thân và ý. Đó là 5 giác quan giúp con người tiếp xúc với thế giới bên ngoài ngay trong giây phút hiện tại và một cửa ý để mở vào thế giới bên trong, giúp ta nắm bắt các đối tượng nội tại ở 3 thời quá khứ, hiện tại, tương lai và cả những ý niệm trừu tượng như Tánh Không chẳng hạn. Đây là giác quan thứ 6 của PG, một chức năng quan trọng của Tâm, mà thiền cố gắng luyện tập và cải thiện.

      Để dễ hiểu hơn lấy một ví dụ : chúng ta đang ngồi chung quanh một bàn tròn trong một tiệc cưới, khung cảnh thật là ồn ào, náo nhiệt : người nầy nói, người kia cười. Nếu chúng ta muốn nghe được, hiểu được câu chuyện của người ngồi bên kia bàn, chúng ta phải hướng sự chú tâm, tập trung tư tưởng về phía người ấy. Thỉnh thoảng nếu chúng ta lơ đễnh hoặc đễ tâm đến việc khác, câu chuyện bị đứt khoản. Muốn cho sự chú tâm được liên tục, tâm phải giữ một mức độ năng lực nhất định.

      Chú tâm hay Niệm giữ một vai trò rất quan trọng trong thiền. Không có Niệm không có thiền.

  1. 3.    Giác tỉnh (vigilance, claire compréhension)

Là sự hiểu biết rõ ràng, sáng suốt, là trạng thái tâm tỉnh thức, tỉnh táo, trong suốt như dòng nước chảy qua các khe đá  hay như một bầu trời trong sáng không một áng mây khiến ta có thể nhìn đến tận những vì sao xa thẳm. Tỉnh giác luôn luôn đi chung với Chánh niệm.  Nó làm nền, làm khung cảnh cho Chánh niệm làm việc. Không có nó, Niệm sẽ làm việc trong vô minh, mờ ảo. Trong y học người ta khảo sát những mức độ tỉnh thức đi từ bình thường tới Hôn mê, người ta phân biệt 4 trạng thái: chênh choáng, lú lẫn, mê đờ, hôn mê (obnubilation, confusion, stupeur,coma).

Trong khoa học Trầm Niệm, người ta phân biệt những trạng thái từ sự Thụy Miên đến Hôn Trầm  đến Tỉnh Giác bình thường , đến Tỉnh Giác đi chung Khinh An, rồi tới Tỉnh Giác phối hợp với Định và sau cùng Tỉnh Giác phối hợp với Định và Xả. 

Sự giác tỉnh có 4 dạng thái, gắn liền với Niệm từ đầu cho đến cuối buổi thiền tập, hay trong trọn khoá thiền tích cực, trừ lúc ngủ, cho dù ta ở tư thế nào trong 4 tư thế : đi, đứng, ngồi, nằm hay trong bất cứ sinh hoạt nào ăn, uống, nghỉ ngơi, làm vườn, quét dọn…

  1. Giác tỉnh về mục đích (Satthaka Sampajanna) làm việc gì cũng phải có mục đích. Một người không có mục đích hay hành động mà không biết rõ mục đích là người sống trong vô minh. Đời sống con người thật ra không ngoài hai mục đích chính yếu : thoả mãn những nhu cầu và những gì mình ham muốn hoặc chửa trị những gì mình đang đau đớn, khổ sở ; ngoài đó ra là thái độ chịu đựng, lẫn tránh cuộc đời. Như những người ở cuối cuộc đời, người bịnh trầm cảm họ không còn mục đích trong cuộc sống. Như có 1 bà cụ sống trên 100 tuổi mỗi lần nghe có 1 bạn già qua đời bà mừng cho người ấy và than rằng “ trời ơi Chúa quên tôi rồi, sao để tôi sống mãi thế nầy “.

      PG đưa ra giải pháp chửa trị cả hai vừa tham muốn vừa đau khổ bằng phương pháp thiền định. Mục đích của THIỀN rõ ràng là để thiêu đốt phiền não, tiêu diệt THAM, SÂN, SI, là 3 hình thái của sự đau Khổ.

  1. Giác tỉnh về những phương tiện thích hợp, thích nghi đúng thì (Sappaya Sampajanna)

Thông minh là gì ? nếu không phải là biết đúng phương cách, xử dụng đúng phương tiện để thực hiện mục đích.

      Trong đời sống chúng ta bị lệ thuộc bởi nhiều điều kiện : thời gian, không gian, phương tiện… Trong thiền cũng vậy : có những điều kiện về trú xứ (nơi thanh tịnh, vắng vẻ) về vật thực (thức ăn vừa đủ, nhẹ nhàng không kích thích, không làm buồn ngủ), về người hướng dẫn : có pháp học, có kinh nghiệm, có giới đức…v.v. Phải sáng suốt thích ứng với các điều kiện trong khả năng có thể làm được, biết khéo léo chọn lựa những phương tiện thích hợp, đúng lúc.

      Nhờ sự giác tỉnh nầy chúng ta mới hoàn thành được mục đích.

  1. Giác tỉnh về phạm vi của thiền (gocara Sampajanna) : các nhà chú giải xưa giải thích đó là « sự không bỏ quên đề mục thiền trong đời sống thường nhật » Theo đại đức Nyanaponika, trong quyển «cốt lõi của thiền PG» (le cœur de la méditation bouddhiste. Edition J. Maisonneuve), điều nầy có thể được hiểu bằng hai cách :

Nếu chúng ta thực hành một đề mục thiền đặc biệt, (như quán tưởng về tính cách bất tịnh của vật thực), chúng ta ráng pha trộn nó với những công việc hoặc ý nghĩ đòi hỏi bởi sinh hoạt đang có. Chẳng hạn trong khi ăn uống, vừa ăn vừa quán tưởng. Như vậy 2 phạm vi thiền tậpđời sống pha trộn lẫn nhau. Nếu giữa sinh hoạt đời sống và đề tài thiền tập không thể trộn lẫn được, thì chúng ta tạm rời bỏ đề mục thiền để sẽ lấy lại nó sau khi công việc đã xong.

      Bằng cách đó có thể được kể như là không bỏ quên đề mục thiền.

      Nếu chúng ta thực hành Chánh Niệm, Tỉnh Giác như được hướng dẫn trong thiền Quán (hay thiền Minh Sát) thì không cần phải gác lại đề mục thiền vì phạm vi thiền quán bao trùm mọi sinh hoạt của đời sống, gồm mọi hoạt động của thân, khẩu, ý. Chúng ta thiền trong cuộc sống hay nói một cách khác  là sống trong thiền.

      Sự thành công của hành giả đòi hỏi sự vận dụng giác tỉnh đã luyện tập được vào những hoàn cảnh đặc biệt của đời sống. Như vậy giữa thiền tậpđời sống không tách biệt nhau. Hành giả đang sống thiền. Giác tỉnh về phạm vi của thiền có thể được hiểu là biết rõ ràng lúc nào chúng ta đang ở trong thiền và lúc nào đã xuất thiền ; hay lúc nào có chánh niệm, lúc nào thiếu chánh niệm.

  1. Giác tỉnh về thực tại không ảo kiến (asammoha sampajanna) cho đến một mức độ khách quan nào đó sẽ dần dần được phát triển trong thiền tập, khi quan sát ta luôn luôn nhìn dưới lăng kính ít nhiều ngã chấp hoặc với nhãn quan tình cảm, vì tất cả mọi sinh hoạt đều bắt nguồn từ tôi : tôi thấy, tôi nghe, tôi hiểu, tôi cảm nhận…

Cái ảo kiến chấp ngã nầy đã tập nhiễm thâm sâu cùng tận trong con người. Chỉ có khi nào với sự luyện tập lâu dài bền vững, quan sát tới quan sát lui những hiện tượng ở trong thân và ở trong tâm (ngủ uẩn) và thấy rằng chúng chỉ là những diễn trình vô ngã, lúc đó ta mới dần dần bẻ gảy và loại bỏ cái quan kiến duy ngã tự kỷ trên.

Chúng ta hãy nghe nhà tâm lý học William James, cha đẻ của ngành tâm lý học hiện đại Mỹ, tự thuật về sự nội quán của ông : « riêng về phần tôi, khi thâm nhập mật thiết vào cái mà tôi gọi là « Tôi » thì luôn luôn tôi vấp phải một cảm giác đặc biệt như nóng hay lạnh, sáng hay tối, thương hay ghét, vui hoặc buồn. Tôi chưa từng bắt gặp cái “tôi” ngoài những cảm giác ấy và chưa hề chiêm nghiệm được cái gì ngoài cảm giác...”(William James, Principales of Psychology trang 351)

Nhà khoa học khi quan sát với thái độ khách quan sẽ giống với một thiền gia quan sát với tâm vô ngã. Hai vị đã cùng xử dụng sự giác tỉnh về thực tại không ảo kiến.

Trong Thiền còn một yếu tố nữa không kém phần quan trọng : đó là Quán hay Quan sát.

  1. 4.    Quán : (observation - quan sát)

      Ngày nay Thiền đã đi vào lãnh vực của khoa học, một nền khoa học mới được gọi là khoa học trầm niệm (science contemplative), trong đó sự quan sát cũng vẫn là phương tiện chánh yếu đầu tiên.Trong khoa học tự nhiên người ta quan sát một sự vật, một hiện tượngthế giới bên ngoài bằng 5 giác quan, nhất là bằng mắt và tai với sự trợ giúp của các dụng cụ như kính-hiển-vi, kính-viển-vọng, hoặc máy chụp hình, chụp quang tuyến… Trong khi các thiền gia quan sát các hiện tượng thuộc thế giới bên trong và bằng ý thứcgiác quan thứ 6 của PG. Dĩ nhiên có rất nhiều trở ngại trong phương cách nầy và kết quả tìm thấy không ai giống ai, vì mỗi người có sự cố gắng, một hiểu biết hay phương pháp khác nhau. Ngay cả những người thực hành cùng một phương pháp, kết quả cũng không giống nhau vì còn tuỳ thuộc nhiều điều kiện nữa.

  • Trước hết phải có một sự quyết tâm sắt đá như Đức Phật và chư vị Bồ Tát (Đức Phật dưới cội bồ đề)
  • Phải có lòng tin nơi phương pháp mình đang thực hành, phương pháp phải đem đến một kết quả gì giống như kết quả của những người đi trước, phải đem đến những hiểu biết hay những kinh nghiệm nào.
  • Phải đem đến sự nhạy bén của tâm, sự hiệu nghiệm của quán niệm (observation attentive) như thế nào?
  • Phải đem đến một trạng thái định tỉnh, buông xả của tâm ra sao?
  • Phải đem đến những khám phá gì về thân tâm nầy?

NHỮNG ĐỐI TƯỢNG QUAN SÁT

Khi nói Quán, phải biết quán cái chi ? Đức Phật trong hầu hết những bài thuyết giảng của Ngài đều nói đến Tứ Niệm Xứ : là bốn đối tượng đễ quan sát. Bốn đối tượng nầy bao trùm tất cả những sinh hoạt vật thể, tinh thầntâm linh con người.

          1/ Thân : tất cả những yếu tố thuộc về thân mà con người có thể ghi nhận được nhờ những thụ thể (récepteur) thần kinh ở trong da, thịt, gân, xương, khớp cốt, nội tạng. Nói chung những yếu tố nầy là tổng hợp của Đất, Nước, Lửa, Gió ghi nhận được qua xúc giác.

          Trong khi thực hành chúng ta chỉ chú tâm đến sự phồng lên, xẹp xuống của bụng hoặc của sự xúc chạm của hơi thở ra vào ở mũi hoặc cảm giác toàn thân qua các tư thế đi, đứng, ngồi, nằm.

          Trong bài kinh Tứ Niệm Xứ, Đức Phật có nói đến « quán thân trong thân, bên trong và bên ngoài hay cả hai » có nghĩa là khi quan sát thân, chúng ta chỉ nên biết những gì thuộc về thân : những đặc tính của chúng, sự vận hành của chúng, không nên lầm lẫn với những đối tượng khác.

          « Bên trong và bên ngoài hay cả hai » có nghĩa là nhìn từ bên trong (chủ quan) và nhìn từ bên ngoài (khách quan). Ví dụ khi bị chóng mặt, nếu quan sát từ bên trong thì nó rõ ràng là thân mình bị quay cuồng, nhưng nếu quan sát từ bên ngoài thì thân mình chỉ nằm một chỗ trên giường chớ đâu có động đậy gì đâu ! Quan sát như thế chúng ta mới biết đâu là sự thật, đâu là ảo tưởng và sẽ không còn sợ hãi khi bị chóng mặt.

          2/ Thọ : là những yếu tố thuộc cảm giác, tình cảm và cảm xúc. Cảm giác thì có : nóng, lạnh/ cứng, mềm/ chuyển động, bất động. Nếu chúng dễ chịu thì làm ta vui thích, nếu chúng khó chịu thì làm ta ghét bỏ, cảm giác trung tính thì làm ta dửng dưng.Những cảm giác trung tính có thể dễ chịu đối với kẻ thiện trí  nhưng khó chịu đối với kẻ phàm phu (Majjhima Nikaya 44, Culavedalla sutta). Ngoài ra ta còn có những cảm xúc như vui buồn, tức giận, sợ hãi, lo âu…

Thọ có thể thuộc về thân như đau đớn, khoái cảm hoặc thuộc về tâm như vui sướng, khổ sở và an xả.

          3/ Tâm : là những trạng thái của tâm. Theo kinh điển có tất cả 16 trạng thái diễn tả tâm trạng con người trong mọi hoàn cảnh sống của nó :

          - Tâm tham / Tâm không tham.

          - Tâm sân / Tâm không sân.

          - Tâm si / Tâm không si.

          - Tâm hôn trầm / Tâm trạo hối.

          - Tâm phát triển (do thiền) / Tâm không phát triển (do không thiền).

          - Tâm hữu hạn (dục giới) / Tâm vô thượng (sắc giới hoặc vô sắc giới).

          - Tâm định / Tâm không định.

          - Tâm giải thoát / Tâm không giải thoát.

Chúng ta thấy có những loại tâm do tu tập thiền mới có được hoặc do chứng đắc như tâm vô thượng, tâm địnhtâm giải thoát.

          4/ Pháp : là những đối tượng của tâm, tất cả những gì tâm có thể ghi nhận, hay biết được qua 6 cửa trong đời sống bình thường, lúc tu tập cũng như khi chứng đắc. Theo kinh điển, Pháp được chia làm 5 nhóm :

* Nhóm 5 chướng ngại : tham, sân, hôn trầm, trạo cử (phóng đãng), hoài nghi.

* Nhóm 12 xứ :

          - 6 căn : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

          - 6 trần : sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.

* Nhóm 7 yếu tố trợ giúp cho sự giác ngộ (thất giác chi) : Niệm, Trạch pháp, Tinh tấn, Hỉ, An, Định, Xả.

* Nhóm Tứ Diệu Đế : Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.

          Pháp như một bảng tổng kết (récapitulatif), thống kê tất cả những đối tượng của tâm.

          Trong tất cả những đối tượng trên, Đức Phật đã chọn đề mục THÂN làm đối tượng chánh, đại diện bởi hơi thở hoặc tư thế, bởi vì chúng dễ được ghi nhận, nắm bắt. Đối tượng chánh nầy là sợi dây nối kết liên tục sự quán niệm để mỗi khi thất niệm, chúng ta biết chỗ nào để trở về.

 

          Đây là phương phápphương tiện do chính Đức Phật giảng dạy, còn ghi chép rõ ràng trong kinh điển, còn được lưu truyền đến ngày nay.

          Muốn tiến bộ phải có sự liên tục trong PHÁP HỌC và PHÁP HÀNH theo một chìêu hướng nhất quán (cohérent) và lập đi, lập lại bởi vì con người dễ duôi hay quên, cho đến khi nào ta khám phá Phật tính ở trong ta và trở thành TAM THÂN như Đức Phật :

          - Pháp thân : là sự thông hiểu những định luật phổ quát của vũ trụ.

          - Báo thân : là cái thể vật chấttinh thần trôi nỗi, biến đổi, thể nhập với những định luật trên và chịu sự chi phối của chúng như định luật nhân quả...

          - Ứng thân : là sự hiển thị của hai thân trên trong những điều kiện đặc biệt nào đó.

          Đó là lý tưởng tột đỉnh của Chư Phật và Bồ Tát.

                                                                                   

TUỆ THIỆN                                                                                                                      01/12/2014

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33386)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34449)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54482)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37677)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21113)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17859)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63612)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17357)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49623)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16840)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16357)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14465)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22412)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 56931)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13817)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 28982)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33274)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38348)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31197)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13883)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14603)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14291)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12626)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14799)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19191)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13796)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12640)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30361)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11806)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30623)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29346)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30543)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31167)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37009)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32202)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23626)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12193)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14218)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14067)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 33942)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27697)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12429)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28580)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29316)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12366)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29180)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 27968)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25621)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26003)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22218)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33092)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31770)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39554)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22359)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34416)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27311)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28325)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 35211)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 31883)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 35051)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant