Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ánh Sáng Của Con Có Thể Tắt

01 Tháng Mười Hai 201512:43(Xem: 10286)
Ánh Sáng Của Con Có Thể Tắt
Câu Chuyện Thiền:
ÁNH SÁNG CỦA CON CÓ THỂ TẮT
 
Trần Đình Hoành

 
Ánh sáng của con có thể tắt

Một học trò Tông Thiên Thai, một tông phái triết lý Phật giáo, đến thiền viện của Gasan học thiền. Vài năm sau cậu ra đi, Gasan cảnh báo cậu: “Học về sự thật bằng phỏng đoán thì lợi ích cũng chỉ như lượm lặt tài liệu giảng huấn. Nhưng nhớ rằng nếu con không thiền quán thường trực, ánh sáng chân l‎ý của con có thể tắt.

Bình:

• Gasan Jōseki (峨山 韶碩 1275–23/11/1366) là thiền sư dòng Tào Động Nhật Bản, mà ta đã nhắc đến trong bài Không Xa Phật Vị.

• “Học về sự thật bằng phỏng đoán thì lợi ích cũng chỉ như lượm lặt tài liệu giảng huấn.” Đây là cảnh báo về cách học triết lý lệ thuộc nặng nề vào chữ nghĩalý luận của Thiên Thai Tông. Trong bài Cỏ Cây Giác Ngộ Như Thế Nào chúng ta đã nói đến sự vô ích của các câu hỏi triết lý rắc rối của học trò Thiên Thai. Triết lý và lý luậnphỏng đoán sự thật bằng chữ nghĩa, cùng lắm thì cũng chỉ là như lượm lặt tài liệu để giảng bài. Giảng bài đã không phải là chân lý, lượm lặt tài liệu càng xa chân lý hơn.

 “Nhưng nhớ rằng nếu con không thiền quán thường trực, ánh sáng chân l‎ý của con có thể tắt.” Thiền quán là nhìn một cách tĩnh lặng. Nhìn sự vật “như nó là”, không suy luận, không biện giải, không phê phán… Chỉ nhìn mà thôi, và nhìn rất kỹ. Chính vì tĩnh lặng nhìn kỹ như thế cho nên chúng ta mới có thể “ngộ” (thấy rõ) chân lý trong sự vật.

Nếu ta không thiền quán mà lại thích triết lý, lý luậnthuyết giảng – tức là các thứ thuộc về chữ nghĩa – thì ánh sáng chân lý của ta có thể tắt.

• Khác biệt giữa “thiền quán” và “suy nghĩ”: Suy nghĩ hay suy tư là “nghĩ”. Thiền quán là chỉ “nhìn” (quán), nhìn sự vật “như nó là” mà chẳng “nghĩ” gì cả. Khác biệt về tính danh này đưa đến các khác biệt sau:

1. Khác biệt đầu tiên là tĩnh lặng về cảm xúc. Chúng ta có thể suy nghĩ với đủ loại cảm xúc trong đầu, nhưng thiền quán thì tâm ta phải rất tĩnh lặng,

Ví dụ: Suy nghĩ về cách trả đũa anh chàng mới chửi mình hồi chiều, vừa suy nghĩ vừa sôi máu. Nếu ta thiền quán về anh chàng này, thì tâm ta phải rất tĩnh lặng, không hờn giận, không một gơn sóng khi ta “nhìn” (quán) anh chàng trong tâm mình.

2. Khác biệt thứ hai là tĩnh lặng về tư tưởng. Suy nghĩ thì có câu hỏi, và chạy theo dòng lý luận để tìm câu trả lời; thiền quán thì chỉ “nhìn” thôi, rồi điều gì đến thì đến, không đến thì không đến, chẳng chạy theo điều gì, chẳng nhắm vào câu trả lời nào cả.

Ví dụ: Suy nghĩ “Có thượng đế không?” À, có cái bàn là có ông thợ mộc. Có quả là có nhân. Có vũ trụ phải có người làm ra vũ trụ,. Vậy phải có thượng đế. Có thượng đế thì phải có người sỉnh ra thượng đế. Ai vậy?…

“Thiền quán” thì chỉ “nhìn.” Muốn quán vũ trụ thì cứ nhìn các tinh tú, không gian, các thiên hà, các giới hạn (hay không giới hạn) của vũ trụ… đến các phân tử, nguyên tử li ti của vật thể… rồi chân l‎ý nào đến với mình thì đến, không thì thôi, chẳng đeo đuổi theo ý gì trong đầu cả…

3. Khác biệt thứ ba là sự tập trung và tự do của tâm trí. Đây chỉ là hệ quả của khác biệt thứ nhất và thứ hai bên trên.

Khi “suy nghĩ” ta có cả hàng trăm tư tưởng, cảm xúc, lý‎ luận, kết luận, phán đoán chạy tới chạy lui. “Thiền quán” thì ta chẳng có gì trong đầu cả, ngoại trừ một “hình ảnh” của điều mà ta đang quán, như nó là, mà chẳng l‎ý luận, phán đoán, kết luận gì cả.

Vi dụ: Suy nghĩ về chuyện cãi nhau hồi chiều với người bạn thân , ta có thể suy nghĩ: Cô ấy nói câu này, nói như vậy là rõ ràng làm mình đau, tại sao cô ấy làm mình đau, vì cô ấy ganh tị với mình, cô ấy đang cạnh tranh ảnh hưởng với mình…

Nếu thiền quán về chuyện cãi nhau này thì tâm mình thật tĩnh lặng, không sóng giận, cũng chẳng suy nghĩ gì, chỉ “nhìn” hình ảnh cãi nhau hồi chiều… và thấy… khuôn mặt cô ấy thật buồn vời vợi khi nói với mình câu này… và mình đã không thấy được các nét ấy lúc đó, và mình đã vội vã thọc cho cô ấy một quả đấm ngôn ngữ kinh hồn… và cô ấy đã nhìn mình với khuôn mặt vừa kinh ngạc vừa buồn vô tận… và lặng lẽ ra ngoài… và mình đã cho là cô ấy khinh thường mình… và mình đã chửi ngóng theo một câu cuối…
Một điểm nữa quan trọng ở đây là khi suy tưởng các vấn đề trừu tượng, chúng ta thường theo một trường phái lý‎ luận triết lý nào đó, ví dụ: triết l‎ý hiện sinh, hay duy vật biện chứng pháp… cho nên tư duy thường rất phiến diện, vì bị gò bó trong khung lý luận của trường phái ta đang dùng. Chính vì vậy mà các triết gia hay cãi nhau, ông nói gà bà nói vịt.

Khi “quán” ta chỉ “nhìn sự vật như nó là” cho nên ta chẳng theo trường phái nào cả. Cứ nhìn kỹ thôi. Vì vậy tâm trí ta thực sự tự dođộc lập, và cái nhìn rõ ràng hơn rất nhiều.

4. Khác biệt thứ tư là kết luận. Đây là hệ quả đương nhiên của ba khác biệt trên: Suy nghĩ chấm dứt bằng một kết luận của suy tưởng lý luận, thường theo công thức của luận lý học.

Quán chấm dứt khi nào mình biết là mình đã nhìn thấy toàn thể, thông suốt hoàn toàn điều mình nhìn, từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong, từ mọi hướng nhìn.

Ví dụ: Suy nghĩ về một tên trộm: Hắn vào nhà, lấy chiếc nhẫn hột xoàn bỏ túi, toàn vụ việc bị thâu vào hệ thống quan sát điện tử. Kết luận: Vậy hắn là tên trộm.

Quán về tên trộm thì nhìn hắn, nhìn hình ảnh hắn lấy hột xoàn, nhìn thái độ đầu hàng dịu dàng của hắn khi bị bắt, nhìn khuôn mặt buồn rười rượi tuyệt vọng của hắn, dáng đi thiểu não của hắn…

• Trước khi “quán” thì tâm ta phải “định” (samadhi), tức là đứng yên. Nếu tâm còn nhảy choi choi thì không thể quán được. Vì vậy người ta thường phải dùng “thiền chỉ” (samatha), ví dụ tập trung vào hơi thở để định tâm trước, khi đã “định” được rồi, muốn quán (vipassana) gì thì “quán”, và trong khi quán, tâm mình vẫn “định”.

(Trần Đình Hoành dịch và bình)

 

Your Light May Go Out

A student of Tendai, a philosophical school of Buddhism, came to the Zen abode of Gasan as a pupil. When he was departing a few years later, Gasan warned him: “Studying the truth speculatively is useful as a way of collecting preaching material. But remember that unless you meditate constantly you light of truth may go out.”

Annotation:

• Gasan Jōseki (峨山 韶碩 1275–11/23/1366) is a Japanese Soto Zen master, who appeared in Zen sstory #16 Not Far From Buddhahood.

“Studying the truth speculatively is useful as a way of collecting preaching material.” This is a warning about learning philosophy and depending heavily on words and arguments of the Tendai school. In How Grass and Trees Became Enlightened we have talked about the futility of Tendai students’ entangling philosophical questions. Philosophy and argument, at most, are similar to collecting materials to preach. Preaching itself is not the truth, collecting materials is much further from the truth.

“But remember that unless you meditate constantly you light of truth may go out.” The meditation here is Vipassana – looking deeply and quietly at something in the mind , looking deeply at something “as it is”, without reasoning, without explanation, without criticizing… Only looking , and looking very deeply. Thanks to such quiet and deep looking, we may attain Enlightenment – seeing the truth in everything.

If we don’t look deeply, but only like to philosophize and preach – things belonging to the realm of words – then our light of truth may goes out.

Difference between “looking deeply” and “thinking”: Looking deeply means we only look at something as it is and don’t think about anything. This difference leads to the following differences.

1. The first difference is the quietness of emotion. We can think with all kinds of emotion in our mind, but when we look deeply our mind has to be vey quiet.

Example: I think about this guy who insulted me this afternoon, thinking and my blood boiling. But if I look deeply at home, then my mind must be quiet, no anger, not a wave when I look deeply at him in my mind.

2. The second difference is the quietness of thought. Thinking means we have questions and we run after the flow of logics to find the answers. Looking deeply means only looking, and whatever will come will come, whatever will not come will not come; we don’t run after anything, we don’t look for any answer.

Example: We think and ask “Is there a God?” Ah, if there is a table, there must be a carpenter. If there is an effect, there must be a cause. If there is a universe, there must be a creator of the universe. Hence, there must be a God. If there is a God, there must be someone who creates God. Who?…

If we look deeply then we look only. If we want to look deeply at the universe, then we look at the space, the stars, the galaxies, the limits or non-limits of the universe… we look at the unit cells, the atoms of materials… and whatever truth will come to us will come, if nothing comes then it’s OK, we don’t go after any thought in mind.

3. The third difference is the concentration and the freedom of the mind: This is the consequence of the two preceding differences. When we think, we have hundreds of things – thoughts, emotions, arguments, conclusions, judgments running in our mind. When we look deeply we don’t have anything in our mind except for one image of what we are looking at, as it is, without the interference of arguments, judgments, or conclusions.

Example: Thinking about the verbal fight with the friend this afternoon, I can think: She said this, that was clearly intended to hurt me, why did she hurt me, because she is jealous with me, she is competing against me for influence…

Looking deeply about this fight, my mind is very quiet, not an angry wave, not a thought. I simply look at the images of the fight this afternoon… and see… her very sad face when she said this to me… and I couldn’t see those sad traces then, and I quickly gave her a horrible verbal punch… and she looked at me full of surprise and infinite sorrow… and walked out silently… and I decided that she ignored me… and I threw a following insult at her…

Another important point here is that when we think about the abstract subjects, we tend to follow some school of philosophical reasoning, such as existentialism or dialectical materialism, hence our thinking process is often narrowed and one-sided, because it is restricted within a reasoning framework of our school of thought. That is the reason why philosophers like to argue—one says “chicken”, the other says “ducks”.

When looking deeply, we only look at a thing as it is, hence we don’t follow any school of thought. Only deeply looking. Thus our mind is truly free and independence and our vision is much clearer.

4. The fourth difference is the conclusion: This is simply the results of the three previous differences: Thinking usually ends with a conclusion drawing from the line of reasoning, usually following the formulas of logics.

Looking deeply ends when we know that we have seen the entire picture, have wholly understood what we have been looking at, from inside out, from outside in, from every angle.

Example: Thinking about a thief: He entered the house, took the diamond ring and put it in his pocket, the whole thing was recorded in the security camera system. Conlusion: he is a thief.

Looking deeply at the thief means looking at him, seeing him take the diamond, looking at his gentle attitude when he surrendered himself to the authority, looking at his greatly sorrowful and desperate face, looking at the despondent way he walked…

• Before looking deeply, our mind must be still and concentrated (samadhi), meaning standing still. If our mind still jumps around, we cannot look deeply. Therefore, we often have to use Samatha Zen, such as breathing in and out and concentrating on our breath to achieve Samadhi, when achieving Samadhi, then we can look deeply at whatever we want to look at, and while looking deeply our mind will still be in Samadhi.

(Trần Đình Hoành translated and annotated)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43846)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 53105)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 24903)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 38043)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24810)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21875)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 21111)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 27895)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 39117)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25566)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14081)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 8559)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 30553)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 38046)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20118)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 15522)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 38683)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 13298)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17518)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 12358)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13793)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 12980)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12879)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14149)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 21079)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 13851)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 17039)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12610)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30713)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 14617)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 13046)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 20268)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant