Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tâm Bình Thường Là Đạo

11 Tháng Mười Hai 201517:47(Xem: 10998)
Tâm Bình Thường Là Đạo

TÂM BÌNH THƯỜNG LÀ ĐẠO

Masao Abe (*)

Trần Tuấn Mẫn dịch

Tâm Bình Thường Là Đạo 

Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng. Người ta có thể trả lời câu hỏi này bằng cách giơ ngón tay lên hay đập nắm tay xuống bàn hay chỉ bằng cách cứ im lặng. Đây là những câu đáp không lời cho câu hỏi “Thiền là gì?”, đây là biểu lộ chân thực của những gì trú ẩn sâu kín vượt ngoài ngôn từ và sự phân tích có tính cách lý trí.

Tuy nhiên, không nhất thiết là không thể nêu ra một câu đáp bằng lời. Lịch sử của Thiền đã chứng tỏ điều này. Có nhiều trường hợp các thiền sư đã đưa ra những câu đáp bằng lời cho các môn đệ của mình. Thế nhưng những câu đáp bằng lời như thế thường lại hoàn toàn bất ngờ, kỳ cục hoặc phi luận lý. Khi được hỏi “Phật là gì?” là câu hỏi tương đương với câu “Thiền là gì?” thì câu trả lời của Động Sơn (807-869) là “Ba cân gai!”, của Triệu Châu (778-897) là “Hãy xem núi Tây chuyển trên sóng!”.Những câu đáp bằng lời kỳ cục này chặt đứt lối lý luận bao hàm trong cách diễn đạt câu hỏi của người hỏi. Vì trỏ vào thực tính của Thiền vốn vượt ngoài sự miêu tả bằng ngôn từ, nên những câu đáp bằng lời không được dùng như là một miêu tả đơn giản, giới hạn về mặt trăng mà chỉ vỏn vẹn được dùng như là những ngón tay trỏ vào mặt trăng. Do đó, nếu ta chấp vào câu đáp bằng lời mà cố phân tích xem có mối liên hệ luân lý nào giữa câu hỏi và câu đáp thì chắc chắn ta sẽ mất cả ngón tay lẫn mặt trăng. Những câu đáp bằng lời này chỉ là những ngón tay,nhưng là những ngón tay được dùng như là “những tấm ván bật” gạt bỏ lối vào mà lúc đầu ta thường chọn và khiến chúng ta nhảy ngay vào chính mặt trăng được xem là “Thực tính”.

Trong khảo luận này, tôi xin chọn công án Thiền “Cái Tâm bình thường là Đạo” (Bình thường tâm thị đạo), công án thứ mười chín trong Vô môn quan.

Vô môn quan là một trong những tác phẩm quan trọng nhất của văn học Thiền. Nó được biên soạn bởi Vô Môn Huệ Khai (1183-1260) vào đầu thế kỷ thứ 13, cuối đời Tống của Trung Quốc. Thường được dịch là cái Cổng Không cổng (Gateless gate), Vô môn quan là một tập hợp bốn mươi tám công án, tức các câu hỏi Thiền, được xây dựng trên các câu chuyện về sự chứng ngộ xưa kia của các thiền sư nổi danh, và được một vị thầy trao cho các môn đệ để họ đấu xử, hầu mong thực hiện sự chứng ngộ của chính họ.

Có lần Triệu Châu (778-897) hỏi ngài Nam Tuyền (748-835):
– Đạo là gì?
Nam Tuyền đáp: Cái Tâm bình thường là Đạo.
– Thế thì có nên hướng dẫn đạo hay không nên?
– Nếu ông cố hướng đến thì ông sẽ xa rời Đạo – Nam Tuyền đáp.
Triệu Châu tiếp:
Nếu không cố hướng đến, làm sao biết được đấy là Đạo?
Nam Tuyền trả lời:
– Đạo không thuộc sự biết hay sự không biết. Biết là sự vọng giác; không biết là sự trống trơn. Nếu ông quả thực đạt đến cái đạo vô nghi thì đấy cũng như thái hư, rộng rãivô biên. Thế thì làm sao có thể có đúng có sai trong Đạo được?
Nghe xong, Triệu Châu liền ngộ.
(Zenkei Shibayama, Zen Comments on the MumonKan, Harper and Row, New York, 1947, p.141).

Có hai lý do để chọn công án này nhằm làm sáng tỏ cái cốt lõi của Thiền. Một là chủ đề của công án này, “Tâm bình thường là Đạo” là một khẳng định bằng lời. Không như các mẫu thức đối đáp bằng lời đã nêu trên, khẳng định này không phải là kỳ cục hay không chấp nhận được mà lại khá thuận cho việc tìm hiểu của trí óc chúng ta. Hơn nữa, cuộc đối thoại xảy ra giữa Triệu ChâuNam Tuyền không đột ngột hay phi luận lý như trường hợp thường thấy trong các đối thoại Thiền, nhưng lại chạm đến một vấn đề quyết yếu mà con người ngày nay phải đối mặt.

Mọi đối thoại chấp nhận được bằng lý trí khá là hiếm hoi trong Thiền. Đây là lý do tại sao Bạch Ẩn (Hakuin, 1685-1768), một thiền sư xuất sắc của Nhật Bản thời Đức Xuyên (Tokugawa), đã phê phán Nam Tuyền rằng “Ta không ưa kiểu dịu dàng của lão bà như thế. Đáng ra ông ấy phải thẳng tay đánh đòn Triệu Châu mà chẳng phải nói gì cả”. Cuộc đối thoại “dịu dàng” này thực ra có vẻ “không giống Thiền” và có thể không kỳ thú bằng cái văn cách của nhiều đối thoại Thiền khác. Nó cũng thiếu cả cái ý nghĩa kịch liệt của sự trao đổi “đánh và quát” qua đó vị Thiền sư đánh học trò, quát anh ta để cố khiến anh ta phá vỡ lối suy luận lý trí tầm thường, nhằm thức tỉnh bản chất thực sự của anh ta. Một đối thoại “dịu dàng”như thế, dù sao tôi cũng nghĩ rằng rất hữu ích để những người ngày nay là chúng ta tránh được những hầm bãy của những ngộ nhận thông thường về Thiền. Những trao đổi “đánh và quát” hay những trao đổi “giống-như-Thiền”có tính cách kỳ quặc đã tạo ra sự ngộ nhận rằng Thiền là cái gì đó chỉ thuần phản lý trí hay kỳ bí. Sự quyết đoán ấy đã tạo thành một trong những lý do khiến tôi bàn thảo về công án này. Mặc dù thế khi đối đãi với mẫu đối thoại “dịu dàng” này, chúng ta phải cẩn thận chớ bỏ qua cái sự việc rằng nó cũng trỏ vào cùng một thực tính của Thiền như các đối thoại kỳ quặc hay lập lờ, hay như những trao đổi “đánh và quát”.

Lý do thứ hai khiến tôi chọn công án này là cái thực tính chân thực của Thiền, ở đây nhằm trỏ “Đạo” hay Con Đường được nêu ra như là cái “tâm bình thường” của chúng ta. Một ngộ nhận về Thiền thường thấy ở phương Tây biểu hiện qua việc tin rằng Thiền là cái gì đó không chỉ thuần phản-lý trí mà còn là cái gì đó có thể nói là bí ẩn, kỳ quái, “lơ lửng trên trời”. Công án nêu ra ở đây rõ ràng nghiền vỡ một ngộ nhận như thế bằng cách nêu trỏ ra rằng cái tâm bình thường của chúng ta là cái Thực tính chân thực của Thiền, bằng cách nhấn mạnh cái bản chất “thực tế”của Thiền.

Một ngộ nhận khác về Thiền cũng được công án này khắc phục. Nó gần như là mặt trái của ngộ nhận nói trên, tức là hiểu Thiền cái gì bí ẩn hay kỳ quái, đôi khi người ta lại bắt vào tính tức sự (immediacy) của Thiền theo kiểu hành tác mà “không suy nghĩ”. Như thế, Thiền được hiểu là một học thuyết trực giác hời hợt hay một tự nhiên tính dễ dãi mà Thiền ngữ “đói thì ăn, khát thì uống” có thể hàm ý. Ở đây, bản chất thực tế của Thiền bị hiểu nhầm thành ra một lối sống đơn thuần thực dụng không có nền tảng triết học hay bản thể học. Ý nghĩa của cái bản chất thực tế của Thiền dù sao cũng được nêu rõ trong đối thoại này giữa Triệu ChâuNam Tuyền. Nói cách khác đi, cái gì là Thiền như được nêu trỏ trong công án “Tâm bình thường là Đạo” ngăn không cho chúng ta xem Thiền có thể có nghĩa là một tức sự tính suông hay một tự nhiên tính như của loài vật, không có nền tảng bản thể học.

Vậy tóm lại, công án được nêu ra ở đây là hữu ích trong việc khắc phục hai ngộ nhận có thể có về Thiền: một đằng xem Thiền là cái gì kỳ bí, và một đằng xem Thiền là cái gì đơn thuần thực dụng.

Nam Tuyền muốn trỏ điều gì về “cái tâm bình thường” khi Ngài nói đến Đạo? Để trả lời câu hỏi này, ta phải quay về chính bản văn.
Có lần Triệu Châu hỏi Nam Tuyền:
– Đạo là gì?
Nam Tuyền đáp:
Tâm bình thường là Đạo.

Thuật ngữ “Đạo” có một ý nghĩa phong phúsâu xa trong lịch sử tri thức của Trung QuốcNhật Bản. Có nguyên nghĩa là con đường cho sự đến và sự đi của con người, Đạo hàm ý cái lối sống, con đường đúng cho con người theo; luật đạo đức, và cả cái nguyên lý căn bản mà trên đó toàn bộ vũ trụvận hành của nó được thiết lập. Đạo được dùng như là một thuật ngữ ách yếu trong Lão giáo (Z. Shibayama, Zen Comments.., Sđd, tr.141).

Như bình luận của vị Thiền sư thời nay của Nhật Bản, ngài Zenkei Shibayama, chính câu hỏi “Đạo là gì?” này đã khiến cho Triệu Châu, một vị Tăng học trẻ tuổi hăng say của Phật học vứt bỏ những nghiên cứu kinh viện của mình về Phật giáothúc đẩy vị này đi trọn nẻo đường từ Hoa Bắc đến Hoa Nam. Thể nghiệm “Đạo là gì?” đã là phận sự khẩn cấp và thiết yếu nhất của vị ấy. Trước câu hỏi này của Triệu Châu, ngài Nam Tuyền đã trả lời dứt khoát: “Cái Tâm bình thường là Đạo”.

Nguyên văn chữ Hán của “Cái Tâm bình thường là Đạo”, bình thường tâm thị đạo, cũng có thể được dịch là “cái tâm thường nhật”, “cái tâm thường dùng” hay “cái tâm thông thường”. Đấy là cái tâm vận hành trong đời sống hằng ngày của chúng ta, như sáng thức dậy, tối đi ngủ, uống trà, dùng bữa, nói chuyện với bạn bè và làm việc ở cơ quan. Đấy không phải là cái tâm chuyên biệt, bất thường, ngoại đẳng như sự hưng khởi tinh thần hay phấn chấn, chập chờn, đê mê hay sự xuất thần có tính cách tôn giáo. Như thế, “Tâm bình thường là Đạo”, có nguyên nghĩa là “cái tâm hằng ngày đúng như chính nó là Con Đường”. Tuy nhiên, không ai có thể chấp nhận một cách dễ dãingay lập tức lời dạy của Nam Tuyền và bảo “Vâng, đúng thế!”. Đấy là vì “từ thời xưa, Đạo đã được bao Thánh nhân, trí giả xem như là một nguyên lý và chân lý nền tảng; và nếu Đạo có nguyên nghĩa là cái tâm hằng ngày của chúng ta đúng như chính nó thì các bà vợ của các nông gia, ngư phủ đều biết nó,và chúng ta cũng không phải chờ hàng Thánh nhân, trí giả dạy dỗ và cứu vớt chúng ta (Sđd, tr. 142)”.

Đây cũng thế, khi ngài Triệu Châu trẻ tuổi không thể dễ dàng chấp nhận lời dạy của ngài Nam Tuyền thì đấy là một sự việc hoàn toàn tự nhiên. Do đó mà Triệu Châu đã phải hỏi “Thế thì có nên hướng đến Đạo hay không nên?”. Chúng ta phải cố gắng theo hướng nào để mở con mắt tâm linh của chúng ta hầu thấy rằng cái tâm bình thường của chúng ta là Đạo?

Ngài Nam Tuyền trả lời rằng: “Nếu ông cố hướng đến Đạo thì sẽ đi xa Đạo”. Như thế nghĩa là chính sự cố gắng và nỗ lực của chúng ta để đạt Đạo vốn đã làm cho chúng ta rời Đạo. Do đó chúng ta càng cố gắng hướng về Đạo thì chúng ta càng xa rời Đạo. Nam Tuyền dứt khoát bác bỏ cái ý niệm cho rằng người ta có thể đạt được Đạo bằng sự cố gắng.

Triệu Châu không do dự hỏi tiếp “Nếu không cố hướng đến thì làm sao biết được đấy là Đạo?” Chúng ta có thể bảo rằng Triệu Châu hỏi như thế là hoàn toàn hợp lý. Nếu không nỗ lực đạt Đạo, không suy luận về Đạo, làm sao chúng ta có thể tìm được rằng cái tâm bình thường là Đạo?

Triệu Châu đã dứt bỏ việc nghiên cứu triết học Phật giáo và đi suốt con đường từ Bắc đến Nam Trung Quốc để học với sư Nam Tuyền. Chúng ta nghe tiếng thét rướm máu của một kẻ đi tìm chân lý đã bị đẩy đến chỗ bế tắc cùng cực. Sự đòi hỏi trong tâm ngài thúc đẩy ngài phá vỡ chỗ bế tắc ấy dù phải đánh đổi cuộc đời mình. Thế mà vẫn không thể có cách nào cả. Mọi thiền gia, không trừ một ai, cũng đều phải kinh qua một sự đau đớn ray rứt nội tại trước khi đạt ngộ (Sđd, tr.143).

Cuối cùng, Nam Tuyền nêu lời dạy rằng: “Đạo không thuộc sự biết hay sự không biết. Biết là sự vọng giác, không biết là sự trống trơn. Nếu ông quả thực đạt đến cái Đạo vô nghi thì đấy cũng như thái hư, rộng rãivô biên. Thế thì làm sao có thể có đúng có sai trong Đạo được?”.

Câu trả lời này hàm ý Nam Tuyền không chấp nhận rằng người ta có thể đến Đạo mà không cố gắng. Hình như ngài bác bỏ việc đến Đạo mà có cố gắng lẫn không cố gắng. Trong lời dạy cuối cùng này của Nam Tuyền, chúng ta cũng đừng quên rằng Đạo vượt ra ngoài chuyện biết lẫn không biết, rằng không những sự biết bị phủ nhận mà cả sự không biết cũng bị phủ nhận. Tóm lại, sự phủ nhận đôi về biết và không biết là cần thiết cho việc ngộ Đạo. Sự phủ nhận đôi này về biết và không biết nối kết với sự phủ quyết đôi về cố gắng và không cố gắng.

Tuy thế, tại sao cả biết lẫn không biết đều bị phủ nhận? Đây là vì theo Nam Tuyền, biết là sự vọng giác và không biết là sự trống trơn. Thế nghĩa là gì? Những người thời nay chúng ta quá quen thuộc với những hình thức khác nhau của cái biết, nhất là cái biết thuộc khoa học: biết một đối tượng không tạo nên một vọng giác mà cho chúng ta một cái biết khách quan, rõ ràng và tách bạch về đối tượng ấy và do đó chúng ta có thể bảo rằng cái biết khách quan biểu hiện chân lý phổ quát. Tuy nhiên, một câu hỏi cần phải được nêu lên ở đây: Cái biết khác quan về một sự vật có thực sự biểu hiện cái thực tính của sự vật ấy không? Trong sự biết một cách khách quan có bao hàm một nhị biên tính giữa chủ thể và đối tượng của sự biết. Thế nghĩa là biết một sự vật là khách quan hóa sự vật ấy thành một đối tượng từ quan điểm của chủ thể. Điều này cũng trỏ ra rằng biết một sự vật nào đó là biết sự vật ấy chỉ ở mức độ như là nó được khách quan hòa bởi một chủ thể. Sơ đồ sẽ là:

Biết
Chủ thể———————đối tượng
(khách quan hóa)

Cái biết thuộc khoa học chỉ là hình thức đơn thuần nhất của cái biết khách quan có được bằng cách triệt tiêu và loại trừ quan điểm chủ quan. Tuy vậy, trong cái biết khách quan này, cái được biết chỉ là đối tượng; và chủ thể vẫn không được biết tới, tức là người biết vẫn chưa được biết tới. Cái được biết (sở tri) và người biết (năng tri) là hai thực thể khác nhau.

Hơn nữa, những gì được biết về sự vật là cái thực tính của sự vật ấy, không phải trong tổng thể của nó mà chỉ ở ngang mức độ sự vật ấy được khách quan hóa. Sự vật không được biết đúng như chính nó. Như thế, khi biết một sự vật nào như là một đối tượng, chúng ta không thể biết cái thực tính toàn thể, mà chỉ biết cái thực tính chi phần và được khái niệm hóa của sự vật nói trên. Do đó, nếu chúng ta cho rằng cái biết khách quan về một sự vật là biểu hiện cái thực tính toàn diện và đích thực của sự vật ấy thì đấy là một sai lầm lớn.

Thực vậy, biết sự vật một cách khách quan là hàm ý che giấu cái thực tính sáng sủa của sự vật. Trong ý nghĩa này, cái biết khách quan về một sự vật hay thế giới, tuy có thể rõ ràng một cách khách quan, cũng có thể bị coi là cái vọng giác không chân thật vì nó không biểu lộ cái thực tính chân thật của sự vật ấy hay của thế giới.

Mặt khác, Đạo là thực tính chân thật trong đó các sự vật và thế giới hiển lộ ra trong sự hiện diện toàn bộ và trong đó cái được biết và người biết không phải là hai mà là một. Như thé, cùng với Nam Tuyền, chúng ta phải bảo rằng Đạo không thuộc sự biết, vì biết là một vọng giác. Để đạt Đạo, chúng ta phải phủ nhận cái biết cùng với cái nhị biên tính chủ thể-đối tượng của nó.

Việc phủ nhận sự biết đương nhiên dẫn chúng ta đến “Sự không biết” trong đó cái nhị biên tính chủ thể đối tượng biền mất. Bây giờ có sự “không biết” và do đó không có chủ thể lẫn đối tượng, không có người biết lẫn cái được biết. Tuy nhiên, điều này để lại cho chúng ta một sự trống trơn hoàn toàn. Trong khi biết là một sự xác định về một sự vật thì không biết là sự phủ nhận về các sự vật, trong sự không biết chỉ có sự thờ ơ. Thế mà Đạo lại không thuộc sự không biết, vì không biết chỉ là một mặt tiêu cực của biết. Không thể đạt đạo trong sự trống trơn thờ ơ. Đạo chân thật thật sự vượt ngoài cả sự biết lẫn sự không biết, vượt ngoài sự xác định và phủ nhân.

Thế thì vượt ngoài cả sự biết lẫn sự không biết, vượt ngoài cả xác định lẫn phủ nhận nghĩa là gì? Đây là không hay Sùnyatà. Đấy là lý do khiến ngài Nam Tuyền bảo: “Nếu ông quả thật đạt đến cái Đạo vô nghi, thì đấy cũng như thái hư rộng rãi và vô biên”. Và cái Đạo này vốn như thái hư, được thể chứng không ở đâu khác ngoài cái tâm bình thường. Đây là ý nghĩa của lời khẳng định đầu tiên của Nam Tuyền, “cái tâm bình thường là Đạo”.

Do đó, cái tâm bình thường này không phải là cái tâm bình thường trước khi đạt sự thể chứng cái không, mà là cái tâm bình thường sau khi và xuyên qua sự đạt tới và được hỗ trợ bởi sự thể chứng cái không. Đấy là bản chất thực tế của Thiền, Thiền không nói vì về cái kỳ bí, siêu nhiên hay siêu việt. Đằng này Thiền lại bảo rằng cái tâm bình thường là Đạo. Tuy nhiên, điều này không nêu trỏ một xác định hời hợt của cái tâm hằng ngày, vì Đạo như là cái tâm bình thường không thuộc sự biết hay sự không biết, và chỉ bằng cách chối bỏ cả thái hư rộng rãivô biên,chỉ xuyên sự ngộ cái thái hư này, cái tâm bình thường mới được thể chứng là như Đạo.

Điều quan trọng nhất về điểm này là thái hư hay không chẳng phải là sự trống không suông mà chính là sự viên mãn. Vì vượt ngoài sự biết và sự không biết, thái hư hiển lộ một hình thức cao của sự biết vốn tự nó không phải là biết cũng không phải là không biết mà bao gồm cả hai. Thực vậy, thoát ngoài cái nhị biên tính giữa biết và không biết, thái hư có thể sử dụng cả hai một cách tự do mà không bị chúng ngăn chận. Hình thức cao này của sự biết là sự biết trong và xuyên qua sự không biết. Sự biết vốn chính nó là sự không biết. Sự không biết vốn chính nó là sự biết. Hình thức cao này của sự biết chính là satori hay ngộ, vốn cũng được gọi là prajna trong Phật học, tức là trí tuệ.

Trong sự biết theo nghĩa thông thường, người biết và cái được biết tách biệt nhau, chúng ta là hai chứ không phải là một. Trong sự không biết thì không có người biết (chủ thể năng tri) lẫn cái được biết (đối tượng sở tri); cái nhị biên tính của người biết và cái được biết không có mặt. Tuy nhiên, trong hình thức cao của sự biết, tức là sự biết trong và xuyên qua sự không biết, người biết và cái được biết hoàn toàn là một, và tuy vậy sự phân biệt của chúng rất rõ ràng. Nói một cách khác, tự ngã và tha nhân là một và tuy vậy tự ngã thực sự là tự ngã và tha nhân thực sự là tha nhân.

Ở đây, tưởng cũng cần trích dẫn một pháp ngữ nổi danh của vị thiền sư Trung Hoa đời Đường là Thanh Nguyên Duy Tín. Pháp ngữ ấy như sau:

“Ba mươi năm trước, khi chưa khởi sự học Thiền, Lão tăng bảo “Núi là núi, nước là nước”. Sau khi nhập vào chân lý Thiền nhờ sự dạy dỗ của một thầy giỏi, Lão tăng bảo “Núi không phải là núi, nước không phải là nước”. Nhưng bây giờ, đã đạt sự an trú tối hậu (tức chứng ngộ) Lão tăng bảo “Núi thực sự là núi, nước thực sự là nước”.

Cấp độ đầu tiên của hiểu biết, tức là “Núi là núi, nước là nước” nêu trỏ “sự biết” trong ý nghĩa khách quan đã bàn trên. Cấp độ thứ hai của hiểu biết, tức “Núi không phải là núi,nước không phải là nước” biểu thị “sự không biết” như là phủ định của “sự biết”, Và cấp độ thứ ba, cuối cùng, của hiểu biết, tức “Núi thực sự là núi, nước thực sự là nước” nhằm trỏ một hình thức cao của sự hiểu biết trong và xuyên qua sự không biết. Trong sự biết này, mọi sự vật được thể nghiệm rõ ràng trong sự tách bạch đúng thực như chúng, không hơn, không kém; tuy mọi sự vật đều bình đẳng và có thể chuyển đổi nhau trong sự như – thị của chúng, tức là, núi thực sự là núi, nước thực sự là nước. Và tuy vậy núi là nước, nước là núi. Cũng thế, chúng ta có thể bảo rằng tôi thực sự là tôi, anh thực sự là anh. Và tuy vậy tôi là anh, anh là tôi. Tính tương hoán và tương nhập này có được vì hình thức cao của sự biết, tức chứng ngộ, được thể nghiệm trong và xuyên qua sự không biết. Sự tách bạch của mọi sự vật và sự tương nhập của mọi sự vật đi kèm với nhau một cách năng động vì hai khía cạnh này được thể nghiệm trong thái hư, rộng rãivô biên. Đây là lý do tại sao trên kia tôi bảo thái hư hay không chẳng phải là sự biết, hay không biết, mọi sự vật được xác nhận đúng như chính chúng trong thực tính của chúng, không hơn, không kém. Do đó, ngài Vô Môn phát biểu trong bài tụng của ngài rằng:

Xuân có trăm hoa, Thu có trăng,
Hạ về gió mát, tuyết Đông giăng
Ví lòng thanh thản, không lo nghĩ,
Ấy buổi êm đềm chốn thế gian.

Nếu ta thoát ngoài sự biết và sự không biết, tức là nếu lòng thanh thản không lo nghĩ, thì cái tâm bình thường của chúng ta là Đạo. Đạo hay Chân lý không ở đâu xa, không phải là cái gì để thể chứng trong tương lai, mà ở ngay đây, ngay bây giờ, trong cái tâm bình thường của chúng ta.

Như một vị cổ đức bảo:

Đạo không bao giờ xa rời chúng ta dù trong phút chốc.
Nếu không như thế thì đấy không phải là Đạo.

(*) Masao Abe (1915-2006) là một viện sĩ hàn lâm Nhật Bản chuyên về tôn giáo đối chiếu và là giáo sư thực thụ của Viện Đại học Nara. Những quan điểm chín chắn của ông đã được phát triển trong trường phái triết học Kyoto. Ông cũng từng được mời làm giáo sư thỉnh giảng tại nhiều trường đại học Hoa Kỳ. Sau khi Daisetz Teitaro Suzuki qua đời năm 1966, giới nghiên cứu phương Tây công nhận Masao Abe là người đại diện chính yếu cho tư tưởng Thiền Phật giáo ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Các tác phẩm của ông phần lớn được học trò và những người cộng sự góp nhặt biên tập lại, như Thiền và tư tưởng Tây phương (Zen and Western thought),Nghiên cứu về Đạo Nguyên: Triết lý và Tôn giáo (A study of Dogen: His Philosophy and Religion), Phật giáo và Đối thoại về niềm tin (Buddhism and Interfaith Dialogue), Thiền và nghiên cứu đối chiếu (Zen and comparative studies), Thiền và thế giới hiện đại (Zen and modern world).


Ghi chú của người dịch
: Các trích dẫn có đôi chỗ chưa sát hợp với nguyên bản Hán ngữ. Vì tôn trọng cách hiểu của tác giả, chúng tôi vẫn dịch theo bản Anh ngữ: The Core of Zen – The Ordinary Mind TC. Văn Hóa Phật Giáo số 89
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10329)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 11921)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9629)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10144)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10164)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 18967)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14451)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 24143)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15238)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10248)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 21214)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10155)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19096)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 11258)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 18483)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 9193)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 15720)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 25461)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37751)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19420)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18492)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14067)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 19919)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9411)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14209)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35349)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10563)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19533)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23063)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13269)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 20042)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10502)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9529)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 9072)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8373)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9665)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11111)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8216)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 13913)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9819)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15044)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12433)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 11210)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 11990)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 10941)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36274)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8865)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 17113)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10356)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12106)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13491)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 9063)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24596)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11533)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10226)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 14409)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12916)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12351)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 9493)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10045)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant