Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Góp Nhặt Những Viên Ngọc Chánh Niệm, Bài Thứ Tư

11 Tháng Tư 201607:17(Xem: 9826)
Góp Nhặt Những Viên Ngọc Chánh Niệm, Bài Thứ Tư

Bài Thứ Tư 
GÓP NHẶT NHỮNG VIÊN NGỌC CHÁNH NIỆM 

Quán Như Phạm Văn Minh

Góp Nhặt Những Viên Ngọc Chánh Niệm, Bài Thứ Tư


FAQ: Mức độ khả tín của hiệu quả thực tập Chánh niệm?

Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như nhãn, nhĩ , tỵ , thiệt, thân và ý (thức) Thuật ngữ Phật giáo gọi là năm căn hay bình dân hơn là lục tặc (đeo trên người Phật Di Lặc) Đó là sáu cửa ngõ để thế giới bên ngoài xâm nhập vào Tâm.  Hai: Tâm Tư Duy (Thinking mind) qua khái niệm và ý tưởng. Các nhà khoa học não bộ cho biết còn có hai giác quan khác nữa: một là proprio sense, (proprio nghĩa là self), biết vị trí thân thể của chúng ta trong không gianthời gian. Giác quan này ít khi bị mất trừ trường hợp dây thần kinh liên hệ bị cắt đứt. Nạn nhân không thể nào dùng muỗng đưa thức ăn vào miệng, một hành động mà ta làm hàng ngày nhưng thường ít quan tâm. Chúng ta cũng mất ý niệm về thời gian (trước, sau)! Một giác quan khác mà các nhà khoa học não bộ cho biếtintero-ception, nghĩa là cảm giác trực tiếp bên trong thân tâm (lạnh, nóng, vui, buồn, lo lắng, đau đớn) mà từ ngữ thông thường gọi là gut feelings (biết trực tiếp tình cảm, cảm giácý tưởng và ‘biết’ về những cái chúng ta biết và cả những cái chúng ta không biết!) Chỉ có homo sapien-sapiens như loài người mới có trực quan này! Nhớ câu Socrate hay nhắn nhủ đồ đệ” “hãy tự biết mình” Làm sao tự biết mình? Nhờ trực quan này.

Trong khi thinking mind biết thế giới bên ngoài qua khái niệm, sensing mind biết thế giới bên ngoài qua những giác quan nói trên’. Các nhà khoa học não bộ gọi tên thinking mind là DOING MODE, và Sensing Mind là BEING MODE. Vun xới Chánh Niệm có nghĩa là chuyển từ Doing Mode qua Being Mode.

Tâm Tư Duy hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách xuất sắc, tạo ra văn minh, văn hóa, nghệ thuật, triết lý. Não bộ đã học được nhiều kỷ năng trong quá trình tiến hóa nhờ ký ức hoạt động (working memory). Không có ký ức này, mỗi lần chúng ta muốn buộc dây giày, chúng ta phải học lại từ đầu! Nhưng vì phải dựa vào ký ức nên Doing Mode  thường bị điều khiển bởi thói quenchúng ta gọi là automatic pilot và đưa đến tình trạngchúng ta cuối cùng chỉ ‘sống trong đầu’ và thường không còn ‘ý thức’ về những chuyện mà chúng ta ‘đang làm’. Khi ăn mà không biết hay quên mình ‘đang ăn’, khi đi mà ‘quên’ là mình ‘đang đi’ vì trong đầu tràn ngập một  dòng thác lũ của ý tưởng về các chuyện cần làm ngày mai hay tuần tới. Thành thử chúng ta quên sống trong hiện tại nên nhiều khi mất hay vuột cơ hội ‘sống’ những biến cố quan trọng trong đời. Sống như người say rượu và chết như người mộng du!

Chánh niệm giúp chúng ta sống trong khoảnh khắc hiện tại: hiện tạithời gian duy nhấtchúng ta có thể lựa chọn hành động thích hợp. Chánh niệm giúp chúng ta không bỏ phí thời gian và do đó tính ra chúng ta còn ‘lời’ thêm nhiều thời gian để làm những chuyện khác! Cho nên quý vị không thể nói thực hành Chánh Niệm ‘tốn’ thì giờ!

Tâm Tư Duy và Tâm Cảm Thọ: Phân tích ngược lại với cảm thọ

Thinking Mind có những chức năng như suy nghĩ, phân tích, hồi tưởng, hoạch địnhso sánh. Vì thế chúng ta luôn bận “sống trong đầu” với những lo âu này và không còn ý thức về những chuyện xảy ra chung quanh hay nhiều khi ngay trước mắt. Chánh niệm Sensing mind do đó có thể nói là một cách để biết trực tiếp thế giới bên ngoài và bên trong, hay chính xác hơn một cách khác để sống ở đời. Chánh niệm giúp chúng ta trở lại sống với trực quan cho nên chúng ta thấy, nghe, tiếp xúc, ngữi và nếm mọi sự mọi vật như chúng ta tiếp xúc với chúng lần đầu và chúng ta trở nên tò mò nhiều hơn về thế giới bên ngoài và thân tâm. Chánh niệm giúp chúng ta có một cách nhìn mới, không bỏ qua điều gì dù nhỏ đến đâu. Đây là nền tảng của chánh niệm: thức tỉnh, cảnh giác những gì xảy trong bên trong chúng tathế giới bên ngoài từng khoảnh khắc một.  

Mong cầu và vô cầu

Nhiều người thực tập chánh niệm với hy vọng thực hiện được ít nhất là thư giản, hay tăng mức miễn nhiểm để được khỏe mạnh, như khi học lái xe thì đến một mức nào đó, lái xe trở thành một kỹ năng tự nhiên. Điều này rất hợp lý theo sự suy nghĩ thông thường của chúng ta. Nếu không “được gì” thì thực tập làm chi cho mất công! Các Thiền sư dởm thường hứa Quảng hứa Tiều là thực tập Chánh Niệm, hành giảthể đạt được nhân điện (Thiền Bá Láp) hay khai mở luân xa (Thông Thiên Học). Đây là các loại Thiền ngoại đạo, xin cẩn thận khi thực tập vì có thể gặp các biến chứng tẩu hỏa nhập ma. Và Nhất là ngược với nguyên tắc vô cầu của Chánh Niệm.

Đây là một trong những nghịch lý đầu tiên của thực hành chánh niệm,  nếu nhắm một mục đích “nhất định’ có thể là một trở ngại cho động hơn là hữu ích, vì nếu không đạt được mục đích ‘mong muốn’, chúng ta có thể thất vọng là cho rằng Chánh niệm không thích hợp với mình, hay mình không có khả năng thực tập. Nhiều người mong cầu rất cụ thểhợp lý như mong làm giảm áp suất máu hay làm tăng mức “miển nhiễm”. Khi thấy điều này không xảy ra quý vị thất vọng dù nhiều thí nghiệm cho thấy Chánh Niệm thực sự làm giảm áp suất máu, nhưng đó là một hiệu quả phó sản của chánh niệm. Mục đích chủ yếu của Chánh Niệm lớn hơn các mong cầu đó nhiều: mục đích Chánh niệm là giúp quý vị tỉnh thức, chú ý vào bất cứ một hành động đang làm nào trên đời. Còn các kết quả khác sẽ tự nhiên đến.

Chánh Niệm yêu cầu chúng ta tạm thời gạt bỏ phán đoán, thương cái này, ghét cái nọ, mà chỉ ghi nhận. Chúng ta lùi ra sau một bước để quan sát cuộc đời đang hé lộ ‘như chúng là’ trong khoảnh khắc hiện tại. Tâm tiếp xúc với mọi sự mọi việc không thiên kiến (pre-conception), mà chỉ bàng quan ghi nhận hiện trạng đang xảy ra và sau đó chấp nhận thực trạng. Khi chấp nhận hiện trạng, quý vị vô tình làm giảm cường độ của biến cố này và cho phép mình tự do chọn lựa những hành động kế tiếp. Chánh niệm giúp vị kiểm soát lại cuộc đời mình và tìm ra một giải pháp tốt nhất có thể được trong khoảnh khắc hiện tại. Ví dụ khi bị chẩn đoán là bị bệnh ung thư, quý vị chấp nhận là mình bị bệnh, thay vì lo âu, sầu thảm, trách trời, trách đất và sau đó quý vị có thể tìm đúng thầy đúng thuốc để chữa bệnh. Đó là một giải pháp tốt nhất trong tình trạng đó.

Ý tưởng không phải lúc nào cũng là sự thật

Không ai biết ý tưởng từ đâu đến nhưng chúng ta lúc nào cũng suy nghĩ. Các Đại sư Tây Tạng gọi ý tưởngchữ viết trên mặt nước, đó mà không có đó. Thế nhưng Tâm chúng ta xem ý tưởng như những chất liệu có ‘thật’.  Nếu có một biến cố nào đó xảy ra, quý vị dễ bị ý tưởng khống chế, sai khiến. Thay vì là một ‘người phục vụ’ tốt, ý tưởng trở thành một ông chủ độc tài khó tính. Nhờ Chánh niệm quý vị nhận ra ý tưởng chỉ là một tâm hành trong ý thức, đến rồi đi. Chúng không phải là quý vị và cũng không phải lúc nào sự thật. Trong kinh Người Biết Sống Một Mình, Đức Phật cảnh báo là ‘nhiều khi chúng ta bị cuốn khỏi hiện tại, khi nghĩ thân này là Ta, cảm giác này là của Ta, ý tưởng này là của Ta’ (Nhất Hạnh Our Appoinment With Life, P 7). Ý tưởng chỉ là những phán đoán của tâm về quý vị và thế giới, nhiều khi đúng, nhiều khi sai. Thấy được điều này giúp quý vị giải thoát những lo âu không dứt trong tâm của quý vị.

Trốn tránhđối đầu

Trong Tâm tư duy, ngoài nỗi đau do biến cố gây ra, quý vị còn tự bắn vào mình mũi tên thứ hai làm tăng thêm mức căng thẳng đến khi quý vị kiệt sứcthân tâm sụp đổ lúc nào không biết. Chánh niệm quan sát nỗi đau thứ nhất và khuyến khích quý vị chấp nhận thực trạng (Things are the way they are!) và tìm ra một giải pháp ổn thỏa. Khi ghi nhận những khó khăn thì ý tưởng không tự động biến mất, nhưng ít ra chúng giảm cường độ rất nhiều. Quan sátchấp nhận hiện trạng thì chúng dần dần tự biến đi như những tâm hành khác. Đó là sự kỳ diệu của Chánh Niệm, chỉ cần quan sát theo dõi ý tưởng, quyền lực của ý tưởng tự nhiên giảm hay biến mất.

Trong Thinking Mind, quý vị thường có khuynh hướng sống lại những kinh nghiệm đau thương quá khứ và sống trước những đau thương có thể xảy trong tương lai. Không cần nói cường độ đau khổ dĩ nhiên là tăng lên. Chánh niệm huấn luyện cho Tâm chỉ ghi nhận ý tưởng khi chúng xuất hiện. Điều này không có nghĩa là quý vị bị nhốt trong hiện tại, nhưng biết quá khứquá khứ đã qua không trở lại. dự định trong tương lai là dự định trong tương lai, chưa đến.  Trong Sensing Mind quý vị có thể hồi phục sự quân bình tình cảm, giúp quý vị nhìn thấy rõ những nỗi khổ niềm đau nào không thể tránh được trong đời (như vô thường) và do đó có thể có đối ứng thích hợp. Và nếu cần có hành động quý sẽ chọn lựa những quyết định khôn ngoan nhất.

Chánh niệm giúp quý vị có những đối phó với trãi nghiệm bình thản hơn. Và về lâu về dài chánh niệm còn giúp quý vị độ lượngtừ bi đối với chính mình cũng như đối với người khác.

Về phương diện khoa học não bộ, Chánh niệm gây những biến đổi tích cực lên các tế bào não. Những phần tế bào có liên hệ đến các tình cảm tích cực như hạnh phúc, đồng cảm và từ bi được khích động nhiều hơn. Các nghiên cứu cụ thể cho thấy chỉ cần thực hành chánh niệm mỗi ngày trong vòng 8 tuần lễ (như trong chương trình MBSR), quý vị cũng có thể thấy được những ích lợi này.  Dr Sarah Lazar tại ĐH Massachusett cho biết là những người thực hành Chánh Niệm  trong nhiều năm, có mức điểm khởi đầu  (set point)  hạnh phúc cao, nghĩa là những người này ít giận dữ và ít hung hăng, luôn thấy hạnh phúc vui vẻ và trong người thêm nhiều năng lực hơn thay vì mệt mõi. Dr Lazar cũng nhận thấychánh niệm làm kích động một bộ phận của não gọi là Insular, bộ phận làm chúng ta tăng mức đồng cảm và lòng từ bi với người khác trong giao dịch xã hội. Đồng cảm nghĩa là hiểu được động cơ hành động của người khác, do đó thông cảm với họ, dù là mình không chấp nhận hành động của họ. Càng thực tập Chánh niệm nhiều chừng nào phần Insular càng hoạt động nhiều chừng đó. (Ibid p, 49)

Nếu khởi điểm (set point) hạnh phúc của quý vị tăng lên, về lâu về dài, dấu ấn này có thể được in đậm trong các genes cá nhân. Nghĩa là các thế hệ con cháu của quý vị là những đứa con có tâm tính hạnh phúc hơn con cái của những người không thực tập! (Mark Williams, 46).

Chánh niệm và các bệnh tật cơ thể.

Hai kết quả khả quan nhất của Chánh Niệm đối với cơ thể là làm giảm đau cho các bệnh nhân mà bệnh viện đã chịu bó tay, không còn giúp thêm gì nữa. Theo Kabat Zinn các bệnh nhân theo các khóa Chánh niệm MBSR nhiều nhóm tham dự viên có thể làm giảm các cơn đau nhức xuống từ 33%, một số nhóm khác có thể giảm các cơn đau mãn tính xuống đến 50%,  dù đo theo những chỉ số đau nhức nào. Nhiều thí nghiệm lâm sàng cho thấy Chánh niệm có những ảnh hưởng tích cực lên mức độ khỏe mạnh (wellness) của cơ thể. Trong một cuộc nghiên cứu do Viện Sức Khỏe Quốc Gia Mỹ công bố vào năm 2005 cho một số người tham dự thực tập Thiền Siêu Việt (Transcendental Meditation- Thiền Ấn Giáo) trong vòng 19 năm, số tử vong nói chung giảm xuống 23%. Số tử vong liên hệ đến các bệnh tim mạch cũng giảm xuống 30% và số tử vong liên hệ đến ung thư cũng giảm xuống một mức đáng kể. Việc này tương đương với việc sáng chế một loại thuốc mới, nhưng bệnh nhân khỏi phải bị các phản ứng phụ. (ibid, p. 51).

Chánh niệm và trầm cảm 

Hiệu quả nổi bật nhất của Chánh Niệm là đối với bệnh Trầm cảm. Song song với phương pháp MBSR, phương pháp MBCT (Mindfulness Based Cognitive Treatment) do GS Mark Williams và các đồng nghiệp tại ĐH Oxford phát kiến và áp dụng đã làm giảm mức độ tái phát của bệnh trầm cảm xuống còn một phần ba. Viện Y Tế Quốc Gia Anh Quốc khuyến cáo các bệnh nhân nên áp dụng phương pháp MBCT để chữa trị, hoặc áp dụng riêng, hoặc chung với việc dùng thuốc. Nghiên cứu do GS Heeringen ở Bỉ cũng cho thấy bệnh nhân hoặc chỉ thực tập MBCT cho thấy là nguy cơ tái phát giảm xuống một cách đáng kể. Một thí nghiệm khác ở Gia Nã Đại cho thấy kết quả còn ngoạn mục hơn nữa. GS Zindel và các đồng nghiệp ở ĐH Toronto chứng tỏ ngay cả khi bệnh nhân không uống thuốc chống trầm cảm khi thực tập MBCT, kết quả cũng tương đương, nếu không muốn nói còn tốt hơn! (ibid, p. 52).  Những kết quả trên đã được chứng nghiệm bằng nghiên cứu lâm sàng hay trong phòng thí nghiệm của những nhà khoa học não bộ đã thành danh, là hard science, chứ không phải là những lời quảng cáo thương mại nhảm nhí, kiểu sơn đông mãi võ.

Ngoài việc ngăn ngừa bệnh hoạn thân thểtâm lý, Chánh niệm còn giúp chúng ta thanh lọc tâm ý trở thành những người nhân ái hơn. Không có điều thiện nhỏ nào không làm, không phạm điều ác dù là nhỏ tới đâu. Nếu quý vị nào chưa thực tập, xin tỉnh tâm ngồi theo dõi hơi thở. Practicing is believing. Một, Hai. Vào, Ra. Nếu quý vị đang thực tập, tôi chỉ xin nhắc nhở một câu ngắn: Xin tiếp tục. Keep doing.

ABC Ứng Xử: Khoa học tâm lý Ứng Xử (Behaviorism) có đề cập tới hai giai đoạn: Khích động (Stimulus) và phản ứng (reponse). Giữa hai mốc này có một khoảng cách để chúng ta chọn lựa quyết định. Các giai đoạn này tượng trưng cho các giai đoạn ABC. A là stimulus và C là response. B là những lý giải cá nhân về sự cố. C là hành động phản ứng của chúng ta. Thí dụ một người bạn hẹn đi uống cà phê, nhưng không đến. Chúng ta có thể lý giải là bạn bận, chủ không cho về sớm, chẳng hạn. Hoặc chúng ta có thể nghĩ là bạn không còn muốn giữ mối liên hệ nữa. Hành động phản ứng của chúng ta tùy thuộc vào lý giải B. Không phải vì yếu tố A (bạn quên hẹn) mà chúng ta phản ứng cách này hay cách khác. Không cần nói, phản ứng của quý vị có thể khác nhau rất xa, từ tha thứ, thông cảm, hay giận dữ, cắt đứt mối liên hệ. Nếu khoảng cách từ A tới C kéo dài hơn, và chúng ta lý giải sự cố trong chính niệmchúng ta có thể phản ứngý thức, không làm chúng ta hối tiếc về sau.

Chánh niệm phản ảnh trung thực mục đích cứu khổ của Đạo Phật. Như Lai không dạy gì ngoài hơn là phương pháp diệt khổ. Chánh niệm là hương vị của đại dương, tức là hương vị cứu khổ, giải thoát. Đó cũng là đại sự nhân duyên tại sao Đức Phật ra đời, một món quà quý hiếm Phật giáo đã cống hiến cho nhân sinh. Một viên ngọc bích trong sáng được hầu hết các nhà Khoa học Tây phương hiện đại trân trọng, cổ độngáp dụng. Xin quý vị đừng bỏ phí đời mình như người cùng tử trong kinh Pháp Hoa!

Quán Như Phạm Văn Minh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10383)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 11983)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9674)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10177)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10193)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19063)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14529)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 24231)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15302)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10306)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 21319)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10197)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19175)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 11315)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 18588)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 9241)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 15799)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 25551)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37816)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19503)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18570)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14164)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20037)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9452)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14308)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35451)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10605)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19628)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23146)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13325)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 20121)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10553)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9578)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 9134)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8433)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9716)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11162)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8250)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 14006)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9867)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15138)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12511)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 11267)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12041)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11002)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36343)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8925)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 17213)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10418)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12151)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13558)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 9121)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24728)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11603)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10284)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 14465)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12952)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12398)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 9538)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10087)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant