Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Định Nghĩa Chánh Niệm

28 Tháng Mười Hai 201806:55(Xem: 4493)
Định Nghĩa Chánh Niệm

ĐỊNH NGHĨA CHÁNH NIỆM


Ṭhānissaro Bhikkhu
Châu Viên chuyển ngữ[1]
 
Định Nghĩa Chánh Niệm


Những năm gần đây, danh từ “chánh niệm” được xuất hiện tràn ngập khắp sách vở, báo chí, học thuyết, các khóa học, và nó được đề xướng hai học thuyết về sự thực tập chánh niệm (Sati). Học thuyết thứ nhất cho rằng: đức Phật sử dụng thuật ngữ chánh niệm có nghĩa là “vô niệm” hay “không dính vào có hay không”, “sự thuần chú tâm, không pha tạp” (bare attention): trạng thái của sự tiếp nhận thuần khiết - không phản ứng - không phán xét - không can thiệp đối với hiện tượng vật lýtrạng thái của tâm khi chúng tiếp xúc với sáu giác quan (thức là giác quan thứ sáu). Lý thuyết thứ hai là sự nuôi dưỡng trạng thái vô niệm đó sẽ mang lại mục đích hành trì tâm linh Phật giáo: đó là tự do khỏi khổ đau và căng thẳng. Hai học thuyết này đã được trở thành phương thức giải thích tiêu chuẩn về khái niệm chánh niệm là gì và cách thiết lập để phát triển tốt nhất cho mọi người, thậm chí họ không phải là tín đồ Phật giáo.

Tuy nhiên, nhìn vào ánh tuệ giác qua những lời dạy của Đức Phật trong kinh điển Pali, hai lý thuyết này sẽ đưa đến một sự hiểm nhầm nghiêm trọng về khái niệm chánh niệm trong đạo Phật. Điểm tốt nhất, họ trình bày một phần nhỏ của con đường như là giáo lý toàn bộ của sự thực tập; điều tệ nhất là họ đánh mất niềm tin vào các phương pháp thực tập và trình bày sai những gì thực sự là hương vị giải thoát.

Thực tập chánh niệm hiệu quả nhất khi khi ta hiểu biết đúng đắn về định nghĩa và giải thích của đức Phật trên con đường thực tập này. Ngài giải thích chánh niệm (sammā-sati) không phải là vô niệm hoặc sự chú tâm không pha tạp. Thay vì nó là năng lực tích cực hoạt động của bộ nhớ, chuyên nghiệp trong việc kêu gọi tâm thức - nhận diện những lời dạy và ý định để vận hành cho những hành động hiện tại của bạn. Chánh niệm đóng vai trò quan trọng, giúp chánh kiến nhận diện rõ về bản chất của khổ đau và chủ động kết nối mật thiết đến các yếu tố khác của con đường thánh đạo: chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, và chánh mạng, và làm tăng trưởng chánh định[2]. Sau khi xây dựng được chánh định thì lúc đó chúng ta sẽ có tuệ giác giải thoát.

Trong đoạn kinh tiếp theo, đức Phật định nghĩa về Sati (niệm) như là một khả năng nhận diện tỉnh thức, đồng thời nó đóng vai trò chức năng trong việc thực tập thiền tứ niệm xứ, hay là nền tảng của niệm: “Và này các Tỷ-kheo, thế nào là niệm căn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử chánh niệm, thành tựu niệm tuệ, tối thắng, ức niệm, tùy niệm các việc làm từ lâu, và lời nói từ lâu. Vị ấy trú, quán thân trên thân... quán thọ trên các cảm thọ... quán tâm trên tâm... quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tĩnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là niệm căn”[3].

Khi thảo luận về chiều sâu rộng của thiền tứ niệm xứ (satipaṭṭhānas)[4] thường bắt đầu bằng cách hướng dẫn về quán niệm hơi thở. Nhưng, trong công thức của Tứ niệm xứ cho thấy rằng, chánh niệm không phải là đặc tính duy nhất bạn cần để mang đến hơi thở. Mà bạn cần phải tĩnh giác và tinh tấn.

Từ Pali “sampajañña” có nghĩa là sự tỉnh giác (sự tỉnh thức), cũng là một thuật ngữ khác hay bị hiểu lầm. Nó không có nghĩa nhận thức thụ động về hiện tại hay hiểu về hiện tại một cách thụ động như mọi người thường hay định nghĩa. Trong kinh điển thường cho thấy rằng: sự tỉnh giác (sampajañña) có nghĩa là sự ý thức những gì bạn hành động (nghiệp), trong tất cả hoạt động về thân và tâm. Xét cho cùng, nếu như bạn muốn hiểu rõ những những nguyên nhân khổ đau bên trong, bạn phải ý thức rằng bạn đang thực sự có mặt với những gì đang làm trong giây phút hiện tại. Nếu như bạn chỉ đơn giản nhận thức một bài học từ quá khứ, rộng hơn nữa là tiếp nhận tất cả mọi thứ xảy ra trong hiện tại, bạn sẽ không nhìn thấy được nguyên nhân và kết quả của hành động. Đó là lý do tại sao chánh niệm phải đi song hành với sự tỉnh thức trong lúc thiền định.

Tinh tấn (ātappa) có nghĩa là chuyên chú vào những gì bạn đang làm, cố gắng làm cho nó được thiện xảo. Điều này không có nghĩa là bạn giữ trạng thái căng thẳngkiệt sức mọi lúc mọi nơi, bạn chỉ kiên trì phát triển những thiện pháptừ bỏ những thứ gì bất thiện pháp. Trên thực tế, đó là vai trò của chánh tinh tấn, một trong yếu tố quan trọng của bát chánh đạo mà nó đứng liền trước chánh niệm. Chánh niệm nuôi dưỡng những nỗ lực bằng cách nhận diện những gì là thiện và bất thiện, đồng thời nhắc nhở bạn tiếp tục duy trì những thiện pháp một cách khéo léo.

Chánh niệm, tỉnh giáctinh tấn là kim chỉ nam của Đức Thế Tôn hay còn gọi là như lý tác ý (yoniso manasikāra). Chú ý: đó là chú ý thích hợp chứ không phải chú ý thông thường. Không có sự chú tâm nào là đơn thuần. Đức Phật khám phá ra rằng: cách mà bạn chú ý đến cảm thọ của giác quan sẽ quyết định quan điểm về những gì bạn cho là quan trọng; những câu hỏi bạn mang đến cho mỗi trải nghiệm, những vấn đề mà bạn mong muốn giải quyết. Nếu như trong cuộc sống không có sự khó khăn nào hết, bạn có thể tự mở cho mình bất cứ lựa chọn nào có thể đi đến cùng. Nhưng sự thật là có một vấn đề lớn nằm ngay giữa mỗi việc mình làm, đó là: cái khổ đến từ việc hành động trong vô minh, nguyên nhân là gì và con đường đưa đến chấm dứt khổ đau. Đây là lý do tại sao đức Phật không bảo mình hãy nhìn mỗi phút giây bằng con mắt của một người mới bước vào đời. Bạn phải luôn đặt trong tâm vấn đề của khổ, tiếp tục truy tìm nguyên nhân của nó và đưa ra những hướng giải quyết đúng cho vấn đề cần tháo gỡ.

Mặt khác, không như lý tác ý (để tâm vào việc không đáng để tâm) sẽ bị cản trở, tập trung và những câu hỏi như “Tôi là ai?” “Tôi có cái ngã không?”- những câu hỏi này liên quan đến hiện hữubản ngã. Đức Phật nói rằng: những câu hỏi đó sẽ dẫn bạn vào rừng rậm của kiến thủ (quan niệm) và làm mình vướng vào gai nhọn[5]. Những câu hỏi đưa đến tự do tập trung ở sự hiểu biết về khổ, sự buông bỏ nhân khổ và thực tập con đường đưa đến chấm dứt khổ đau. Mong muốn của bạn để trả lời những câu hỏi này là thứ khiến bạn tỉnh thức với những hành động qua thân, khẩu, ý và điều đó khiến mình nhiệt tâm làm các nghiệp ấy một cách đúng nghĩa.

Chính vì vậy, chánh niệmyếu tố giúp chúng ta luôn nhớ đến như lý tác ý. Nghiên cứu của nghành tâm lý học hiện đại đã cho thấy rằng: sự chú tâm (tác ý) không xảy ra một cách liên tục mà xảy ra trong những khoảnh khắc rời rạc. Bạn có thể chú tâm đến điều gì đó trong một khoảng thời gian rất ngắn và một lúc sau bạn phải tự nhắc mình để quay lại nếu như bạn muốn tiếp tục chú ý đến nó. Nói cách khác, sự chú tâm liên tục là cách mà bạn có thể kết nối giữa nguyên nhân và kết quả đã được khâu lại với nhau trong một thời gian ngắn. Đây là những gì cần thiết của chánh niệm. Chánh niệm giúp mình duy trì đối tượng của sự chú ý, và mục đích của sự chú ý trong tâm.

Đây là lí do tại sao sự hiểu biết chính xác về chánh niệmvai trò trên con đường đạt được tuệ giác không cho những học giả có tính soi mói và tranh cải mơ hồ. Điều đó tác động thực sự đến quá trình hành trì của bạn. Nếu không thể nhận diện sự khác biệt giữa những chất liệu mà bạn mang đến cho sự thực hành của mình, chúng sẽ pha trộn lẫn nhau và bạn trở nên khó khăn để có cái nhìn sâu sắc thực sự bên trong.

Ví dụ như, một trong định nghĩa phổ biến của chánh niệm là “giác ngộ”, và mỗi khoảnh khắc của chánh niệm là hương vị tạm thời của giác ngộ. Nhưng chánh niệmpháp hữu vi mà không phải là niết-bàn. Ngộ nhận rằng một trong yếu tố đưa đến con đường giác ngộthức tỉnh chính tự thân nó, điều đó giống như chúng ta đi giữa đường và chìm vào giấc ngủ ngay tại đó. Bạn không bao giờ có thể đi hết đoạn đường, và trong lúc đó bạn sẽ chạy qua con đường của sanh, già, bệnh, chết.

Đồng thời, những định nghĩa khác có lẽ tránh được những sai lầm cho rằng chánh niệmgiác ngộ, nhưng họ nhầm lẫn nó với tính chấtthỉnh thoảng có và thỉnh thoảng không có ích trên con đường hành trì. Ví dụ, chánh niệm đôi khi được xem là sự chú tâm của tình thương hoặc chú tâm của lòng từ bi, nhưng tình thươnglòng từ bi không đồng nghĩa với chánh niệm. Chúng là thực thể riêng biệt. Nếu như mang chúng vào thiền tập của bạn, hiểu rằng chúng đang hoạt động ngoài chánh niệm, vì kỹ năng trong thiền tập đòi hỏi nhìn thấy được chất liệu như từ bithiết thực, nhưng trên thực tế thì không. Đức Phật dạy rằng: hầu hết những trải nghiệm trong cuộc sống của chúng ta, ái là nguyên nhân gây ra khổ đau, vì vậy bạn phải ý thức được điều đó.

Có khi, chánh niệm được định nghĩa là trân quý giây phút hiện tại với những niềm vui nhỏ có được trong giây phút ấy: vị ngọt của một trái nho khô, cảm nhận một tách trà ấm trên tay. Trong lời dạy của đức Phật, sự đánh giá (trân quý) này được gọi là “tri túc” - bằng lòng với những gì mình có. Tri túc có ích khi ta gặp nhiều nghịch cảnh trái ngang trong cuộc sống, nhưng nó không luôn luôn hữu ích trong việc tôi luyện tâm thức. Trên thực tế, đức Phật tiết lộ rằng sự giác ngộ của Ngài không cho phép bất cứ sự hài lòng nào để chứng đắc giác ngộ[6]. Ngài tinh tấn đạt đến trạng thái cao nhất của sự giải thoát mà nơi đó không còn chỗ nào để cao hơn nữa. Vì vậy, sự tri túc chỉ giới hạn trong không gianthời gian. Nếu như chúng ta không bị nhầm lẫn giữa chánh niệm với tri túc, có thể giúp giữ sự thật này trong tâm thức.

Một định nghĩa khá phổ biến khác về chánh niệm là không phản ứng hoặc chấp nhận hoàn toàn. Nếu bạn tìm kiếm những thuật ngữ này trong ngôn ngữ của đức Phật, từ gần nhất bạn sẽ thấy là  buông xả (equanimity) và kiên nhẫn (patient). Buông xả có nghĩa là để những sở thích của bạn một bên và chấp nhận những gì bạn không thể thay đổi. Kiên nhẫn là khả năng làm với một thứ gì đó dù bạn không thích, kiên trì với những tình huống khó khăn thậm chí nó không được giải quyết một cách nhanh chóng như bạn mong muốn. Nhưng khi có chánh niệm vững vàng đối với những điều không vừa ý, không những bạn chấp nhận nó một cách dễ dàng mà còn quan sáthiểu rõ chúng. Khi mà bạn đã hiểu rõ bản chất của vấn đề, như sân hậntham ái có nguy hại cho tâm thức, mình không thể kiên nhẫn hay thản nhiên với chúng. Bạn cần phải nỗ lực hết mình để tháo gở chúng và nuôi dưỡng những thiện pháp bằng cách mang đến những yếu tố khác của con đường thực tập: chánh tư duychánh tinh tấn.

Xét cho cùng, chánh niệm là một phần của con đường tâm linh lớn được vạch ra bởi như lý tác ý. Bạn phải luôn nhớ đem tấm bản đồ lớn này quy chiếu cho những gì mình làm. Ví dụ, bạn cố gắng duy trì hơi thở chánh niệm trong tâm, vì bạn thấy được sự tập trung như là một yếu tố quan trọng của con đường thánh đạo, là một thứ bạn cần phải phát triển chánh niệm về hơi thở cũng là một phương tiện tốt để tu tập định. Hơi thởđiểm tựa vững chãi, giúp chúng ta có thể quan sát những gì xảy ra trong tâm, để nhận diện những phẩm chất nào nơi tâm đang mang đến những kết quả tốt và phầm chất nào không.

Thiền sử dụng rất nhiều pháp hành, và bạn phải cho thấy rõ được những pháp hành đó là gì, chúng khác nhau chỗ nào và nó đóng vai trò gì trong việc hành trì. Bằng cách đó, bạn có thể xác định những gì thiếu để có thể nuôi dưỡng khi tâm chúng ta bị mất quân bình. Khi cảm thấy khó chịubối rối, hãy thử đem vào đó một chút mềm mỏng làm cho tâm an lành và biết đủ. khi có tâm hành lười biếng, hãy nghĩ về sự hiểm nguy của sự vụng về và tự mãn. Điều đó không phải là chúng ta chỉ chú trọng việc tích tập chánh niệm ngày càng nhiều mà cũng cần phải nuôi dưỡng thêm nhiều giá trị thực hành tâm linh khác. Căn bản đầu tiên là bạn có đủ chánh niệm để duy trìtheo dõi các pháp sanh khởi trong thiền tập của bạn mọi lúc mọi nơi. Sau đó, bạn cố gắng duy trì sự tĩnh giác để thấy các giá trị tâm linh thông qua sự tinh tấn hành trì.

Quá trình này giống như nấu ăn. Khi bạn không thích mùi vị của món canh bạn nấu, bạn không mắc kẹt với sự lựa chọn duy nhất là thêm muối. Bạn có thể thêm hành, tỏi, lá hành tây, bất cứ thứ gì bạn cảm thấy cần thiết. Bạn nên nhớ rằng: bạn phải nắm rõ được hết nguyên lý của từng gia vị, và trên mỗi lọ gia vị bạn nên dán nhãn hiệu rõ ràng. Nếu như trên đó tất cả nhãn hiệu là “muối” bạn không cần phải biết loại “muối” nào cần sử dụng.

Và bạn nhớ rằng nấu ăn là có mục đích. Chánh niệmcon đường đưa đến chánh định. Chúng ta thường cho rằng: niệm và định là hai pháp khác nhau của thiền, hay thậm chí cho rằng đó là hai phương pháp của tĩnh giác, nhưng đức Phật chưa bao giờ vạch ra ranh giới giữa niệm và định. Trong lời dạy của Ngài, niệm và định là tương tức lẫn nhau (interwoven): niệm là sắc thái của định và ngược lại định là nền tảng cơ bản để duy trì chánh niệm tốt hơn. Tứ niệm xứđề mục của định, và mức độ cao nhất của định là nơi chánh niệm trở nên thuần khiết.

Ngài Ajaan Lee[7], là vị thầy của thầy tôi, hướng dẫn rằng: chánh niệm kết hợp với tinh tấn cho phát sinh ra định chi gọi là tầm (vitakka) hoặc tư duy, nơi mà hướng tâm về đối tượng, như là hơi thở. Tĩnh giác kết hợp với tinh tấn cho ra một định căn khác gọi là: Tứ (vicāra, là bám chặt tâm trên đối tượng hơi thở). Ta quan sát những gì xảy ra với hơi thở của mình, nó có dễ chịu không? Nếu có hãy tiếp tục làm, nếu không hãy làm gì để cải thiện tình trạng đó. Hãy thử làm cho hơi thở dài hơi một chút, ngắn hơn một chút, sâu hơn, cạn hơn, nhanh hơn, chậm hơn. Và theo dõi những gì đang xảy ra. Khi bạn tìm ra phương pháp thở giúp nuôi dưỡng sự tươi mát và trọn vẹn, bạn có thể đưa sự tươi mát đi khắp tế bào để nuôi cơ thể. Học cách thiết lập hơi thở như thức ăn dinh dưỡng để nuôi sống khắp thân thể. Khi cảm giác cơ thể được làm mới, tâm của bạn có thể dễ dàng sống ngay trong giây phút hiện tại.

Có khi bạn nảy sinh ý nghĩ rằng: không nên cố uốn nắn hơi thở, bạn chỉ đón nhận nó như cách nó đến. Nhưng thiền không phải quá trình thụ động trong việc phán xét thực tại với các pháp sanh khởi và không được điều chỉnh tất cả vấn đề gì. Chánh niệm thường xuyên nhắc nhở chúng ta an trú vào hơi thở trong giây phút hiện tại, nhưng nó cũng nhắc chúng ta nhận diện con đường tâm linh để chuyển hóa, làm tăng trưởng những kết quả tốt trong tương lai và thực tập hơi thở giúp chúng ta thiết lập tâm chánh niệm tĩnh giác thành một phần thiện xảo trên con đường đó.

Đây là lý tại sao sự quan sát đánh giá là cách tốt nhất để tăng niềm hỷ lạc trong hơi thở, đó là thiết yếu của việc thực tập. Nói cách khác, bạn không cần phải từ bỏ khả năng phán xét của mình khi tu tập chánh niệm. Thay vào đó, bạn huấn luyện tâm trở nên ít phán xét và tinh tế hơn để mang lại kết quả thiết thực.

Khi hơi thở trở nên tươi mát và thực sự lưu chuyển khắp cơ thể, bạn có thể bỏ đi những đánh giáđơn giản chỉ là một với hơi thể. Trạng thái này được gọi là “vạn pháp quy nhất” (oneness) thỉnh thoảng cũng gọi là “chánh niệm”. Theo nghĩa đen: chánh niệm có nghĩa là trạng thái hợp nhất có mặt xuyên suốt và tỉnh thức trong từng giây phút một. Bạn đang có mặt trong những việc mà bạn tập trung vào, tại thời điểm mà bạn đang làm. Ở đó hoàn toàn không có sự riêng biệt giữa “Bạn” và tất cả hay là không có chủ thể nào. Đây là loại chánh niệm rất dễ nhầm lẫn với sự giác ngộ, bởi vì nó có vẻ như giải thoát, nhưng trong ngôn ngữ của đức Thế tôn gọi đó không phải là chánh niệm hoặc giác ngộ. Ngài gọi đó bởi thuật ngữ: “tâm thuần nhất” hay “tĩnh nhất tâm” (cetaso ekodibhāva). Trong chín tầng thiền giải thoát, hiện tượng này xuất hiện trong tầng thiền thứ hai, từ tầng thiền thứ hai đến tầng thiền thứ sáu là thức vô biên xứ. Hiện tượng “tâm thuần nhất” sẽ không còn hiện hữu ở tầng thiền thứ bảy (vô sở hữu xứ), khi đó tâm thức sẽ bỏ vạn pháp quy nhất để đạt đến tánh không. Vì vậy vạn pháp quy nhất thậm chí không phải là tầng thiền cuối cùng để đạt đến giải thoát giác ngộ.

Điều này có nghĩa rằng vẫn còn nhiều việc phải làm hơn nữa khi tu tập chánh niệm, và nó không thể thiếu hai yếu tố tỉnh giáctinh tấn. Chánh niệm giúp chúng ta đạt đến cảm thọ hỷ lạc như thế nào của trạng thái nhất tâm này dù mầu nhiệmtuyệt vời đến đâu, bạn vẫn chưa giải quyết xong vấn đề khổ. Cố gắng tỉnh giác khi tâm ta đang trú trong trạng thái của sự nhất tâm đó. Những nỗ lực để duy trì cảm thọ của trạng thái nhất tâm đang diễn ra và mức độ vi tế của phiền não mà những chọn lựa đó đang gây ra – trong khi chánh tinh tấn nỗ lực tìm kiếm con đường chấm dứt những khổ đau đó.

Vậy thì ngay cảm giác bất nhị này cũng là một phương tiện để đưa một chỗ cao hơn. Bạn đưa cái tâm của mình đến với trạng thái vững chắc của tâm nhất như để loại đi những thói quen huân tập kinh nghiệm về cái tôi, và của tôi, nhưng bạn đừng nên chỉ dừng tại đó. Sau đó ta tiếp tục soi chiếu trạng thái nhất tâm mọi yếu tố của con đường thực tập.

Đó là hoạt động căn bản nằm nằm ở phía dưới tâm nhất như trở nên khác biệt rõ ràng. Ngài Ajaan Lee sử dụng hình của kim loại nằm ở trong quặng đá. Ở trong trạng thái của tâm nhất như thật giống như thỏa mãn với kiến thức rằng: thiết, bạc và vàng nằm trong đá của bạn. Nếu như bạn dừng lại ở đó, bạn sẽ không bao giờ nhận được kim loại nào để sử dụng. Nhưng nếu như bạn nung đá đến điểm nóng chảy khác nhau, các kim loại đó sẽ tự tách ra. Chỉ khi đó bạn mới có thể hưởng lợi từ chúng.

Giác ngộ bên trong phải đến từ thử nghiệm và trải nghiệm, đó là cách chúng ta học về sự hình thành thế giới. Nếu như chúng ta không phải loài năng động, chúng ta sẽ không hiểu gì về thứ giới này. Mọi thứ sẽ trôi qua từng ngày và chúng ta không biết được mối liên kết như thế nào bởi vì chúng ta không có cách nào tác động đến mọi hiện tượng để thấy kết quả từ những thay đổi nguyên nhân nào. Bởi vì chúng ta hành động trong thế giớichúng ta có thể hiểu nó.

Điều này cũng giống với tâm thức của chúng ta. Bạn không có thể chỉ ngồi đó để hy vọng vào một pháp: chánh niệm, tri túc, tâm hợp nhất, buông xả v.v… sẽ vận hành mọi hành động. Nếu như bạn muốn học về tiềm năng của tâm thức, bạn phải thực thực hành bốn nền tảng của niệm: quán thân, thọ, tâm và pháp. Sau đó bạn mới nhận diện được nguyên nhân và kết quả của khổ đau.

Nhưng hiểu rõ được nhân quả đòi hỏi tất cả năng lực tuệ giác của bạn. Điều này không có nghĩa là sự thông tuệ từ sách vở. Nó có nghĩa là khả năng nhận chân được những gì bạn đang làm để thấy được kết quả sau đó, và tìm ra phương tiện khéo léo để thiết lập con đường ít đau khổcăng thẳng: đó là con đường tuệ giác của Phật. Chánh niệm cho phép bạn nhận diện những vấn đề, truy tìm nguyên nhân cho đến cho bạn thấy được kết quả của hành động.

Nhưng chỉ có một mình chánh niệm không thể làm hết mọi công việc. Bạn không thể cải thiện món canh chỉ đơn giản là bỏ thêm nhiều tiêu vào nó. Bạn thêm những thành phần khác như chúng cần. Đó là lý do tại sao không nên chuyển tải từ chánh niệm quá nhiều nghĩa và gán cho nó nhiều chức năng. Mặc khác, bạn không thể thấu hiểu rõ ràng tính chất hữu ích của tri túc và khi nào nó không, khi cần mang mọi thứ đến trạng thái nhất thể và khi bạn cần phải tách rời mọi thứ.

Vì vậy nên để nhãn hiệu trên từng lọ gia vị của bạn và học cách thực tập loại nào là tốt cho mục đích của bạn. Chỉ như vậy, bạn mới có thể làm phát triển khả năng của bạn như người đầu bếp.



[1] Mindfulness Defined. Nguồn: www.dharmatalks.org

[2] Kinh Trung bộ (MN 117), HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Đại Kinh Bốn Mươi.

[3] Kinh tương ưng bộ (SN 48:10), HT. Thích Minh Châu dịch, chương IV, Phẩm Thanh Tịnh.

[4] Kinh Trường Bộ (DN 22), HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Đại Niệm Xứ.

[5] Kinh Trung Bộ (MN 02), HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Tất Cả Lậu Hoặc.

[6] Kinh Tăng chị bộ (AN 2:5), HT. Thích Minh Châu dịch, Chương II, phẩm Hội Chúng.

[7] Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961) là một trong những vị tỳ-kheo theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng của Thái Lan bậc nhất. Cuộc đời ngài ngắn ngủi nhưng đầy biến động. Nổi tiếng là vị thầy đạo hạnh, và ngài là người đầu tiên đã đem truyền thống tu khổ hạnh ra khỏi những cánh rừng thuộc lưu vực sông Mê-kông, để hòa nhập vào xã hội hiện đại ở ngay trung tâm Thái Lan.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10406)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 12009)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9688)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10207)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10221)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19116)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14576)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 24255)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15331)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10325)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 21362)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10225)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19215)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 11340)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 18635)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 9259)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 15872)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 25590)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37840)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19530)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18617)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14213)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20069)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9481)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14336)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35524)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10632)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19656)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23168)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13341)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 20171)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10579)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9599)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 9165)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8468)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9744)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11187)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8284)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 14056)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9879)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15172)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12538)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 11290)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12058)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11020)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36365)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8939)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 17232)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10444)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12179)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13592)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 9130)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24771)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11617)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10297)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 14483)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12977)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12419)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 9554)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10108)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant