Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thiền Định Phương Thuốc Hữu Hiệu Giúp Cơ Thể Thích Ứng Với Trạng Thái Toàn Cầu Hóa

01 Tháng Năm 201907:17(Xem: 3305)
Thiền Định Phương Thuốc Hữu Hiệu Giúp Cơ Thể Thích Ứng Với Trạng Thái Toàn Cầu Hóa
Thiền Định Phương Thuốc Hữu Hiệu Giúp Cơ Thể Thích Ứng
VớiTrạng Thái Toàn Cầu Hóa

Thierry Janssen
Hoàng Phong (Pháp) lược dịch

Thiền Định Phương Thuốc Hữu Hiệu Giúp Cơ Thể Thích Ứng Với Trạng Thái Toàn Cầu Hóa



Lời người dịch:

Stress : có nghĩa là sự dồn nén, cưỡng ép trên cả hai mặt sinh lýtâm lý, một trạng thái căn thẳng thần kinh, gây ra lo âu, sợ sệt và sau cùng là sự suy nhược cơ thể. Một nhân vật nêu lên trong bài viết nầy cho biết chữ STRESS không có trong ngôn ngữ Tây tạng, người dịch cũng nghĩ rằng không có trong ngôn ngữ Việt Nam. Tuy thế, triệu chứng khủng khoảng của trạng thái căng thẳng thần kinh xảy ra thường xuyên chung quanh ta, nhưng vì ngôn ngữ không đủ khả năng thích ứng kịp thời với hậu quả củng những biến đổi trong xã hội ngày nay để nhanh chóng sáng chế ra những ngôn từ thích nghi dùng mô tả những triệu chứng ấy mà thôi. Viện Tâm Linh và sự sống (Mind anh Life Institute) tổ chức thường xuyên những cuộc gặp gỡ giữa các nhà khoa học nổi tiếng cùng với Đức ĐẠT LAI LẠT MA, cũng như với các nhà sư danh tiếng khác trên thế giới để trao đổi những hiểu biết giữa khoa học và Phật giáo. Phúc trình và kết quả những lần họp như thế đều được xuất bản thành sách. Dưới đây là nội dung hội nghị được tổ chức vào cuối năm 2005 và đã được bác sĩ THIERRY JANSSEN tóm lược. Bác sĩ Thierry Janssen vừa là một bác sĩ giải phẩu vừa là một bác sĩ điều trị tâm thần nổi tiếng, ông đã từng xuất bản nhiều sách về tâm linh. Tôi xin lược dịch bài viết của ông dưới đây.

Nhiều khoa học gia lừng danh thế giới họp nhau để gặp gỡ Đức ĐẠT LAI ĐẠT MA và một số các nhân vật khác về tâm linh trong ba ngày từ ngày 8 đến ngày ngày 10 tháng 11 năm 2005. Hội nghị do VIỆN TÂM LINH và SỰ SỐNG (Mind anh Life Institute) tổ chức tại WASHINGTON, chủ đề chính thức là “SỰ MỀM DẼO CỦA NÃO BỘ”. Hội nghị nầy được tổ chức vài ngày trước khi khai mạc Hội nghị thường niên của Hiệp Hội Thần Kinh Học, và chính trong dịp đại hội của Hiệp Hội Thần Kinh Học, Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã được mời đọc điển văn khai mạc.

SỰ HIỆP LỰC GIỮA KHOA HỌC VÀ PHẬT GIÁO

Viện Tâm Linh và Sự Sống có thể là một tấm gương tiêu biểu nhất cho sự hợp tác và hỗ trợ giữa những ngành học rất khác nhau và sự hiểu biết đa dạng. Với chủ đích thiết lập đối thoại giữa khoa học và Phật giáo, hai nền văn hóa đó sẽ ra sức, tùy theo những phương pháp cá biệt của mỗi ngành, để tìm hiểu bản chất của thực tại, nhằm vào mục tiêu cải thiện hoàn cảnh con người.

Dự án trên đây là một dự án khá tham vọng. Vì thực tế, không có gì khó hơn là thiết lập đối thoại mang tính cách xây dựng giữa hai nền văn hóa khác nhau. Nhưng thực tế cho thấy chỉ hai năm sau đó, cuộc gặp gỡ đầu tiên được tổ chức tại DHARAMSALA (Ấn Độ) nơi tư thất của nhà lãnh đạo tinh thần của người dân Tây Tạng là ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA và những nhà khoa học. Tiếp theo đó, khoảng một chục cuộc họp nhỏ hơn đã được tổ chức đều đặn cho đến năm 2003, khi trường đại học danh tiếng là MASSACHUSETTS INSTITUTE OF TECHNOLOGY (MIT) mời ông ENGEL đứng ra tổ chức một hội nghị ở BOSTON với số cử tọa lớn hơn nữa. Vào lúc ấy thì ông FRANCISCO VERALA đã qua đời vào tháng 5 năm 2001. [Ghi chú thêm của người dịch : Đức Đạt Lai Lạt Ma được thông báo ông Francisco Verala ngã bệnh và Ngài đã thấy trước sự ra đi của ông nầy, Ngài liền cho thu băng video hình ảnh và những lời dặn dò của Ngài để cấp tốc gởi sang Paris cho ông Francisco Verala nghe trước khi ông từ trần]. Nếu ông còn sống có lẽ ông sẽ phải hân hoan lắm khi thấy kết quả đối thoại do Viện Tâm Linh và Sự Sống đem đến đang thu hút sự quan tâm cao độ của tất cả cộng đồng khoa học.

Cách hai mươi năm trước đây, mấy ai có thể ngờ được lần hội nghị thứ mười ba của Viện Tâm Linh và Sự Sống, nêu lên những đối thoại giữa khoa học và tâm linh lại được hai thể chế uy tín như Đại Học JOHNS HOPSKIN ở Baltimore và Đại học GEORGETOWN ở Washington đứng ra hổ trợ ? Trong buổi khai mạc, ông EDWARD MILLER khoa trưởng Phân Khoa Y học JOHNS HOPSKIN đã đứng lên phát biểu như sau: “Sứ mạng của chúng ta là đề cập đến những lãnh vực chưa được khám phátìm hiểu những gì chưa có thể hiểu nỗi. Chúng ta nên đón nhận những thắc mắc mới để đem đến những giải đáp mới”. Chủ đề nêu lên trong lần họp nầy là cơ sở khoa học và hiệu quả trị liệu do Thiền Định mang đến. Đây là những thắc mắc mà các nhà nghiên cứu Tây phương đã nêu lên từ lâu. Nhưng từ khi ngành Thần kinh học thành công với một số tiến bộ mới nhất gần đây, người ta mới bắt đầu tìm thấy những câu giải đáp. Đó cũng là những gì mà hai nhà khoa học JON KABAT-ZINN và RICHARD DAVIDSON, phụ trách chương trình khoa học cho những buổi họp đang diễn ra, đã chứng minh qua suốt quá trình thực hiện lâu dài của họ.

MỘT PHƯƠNG CÁCH CHỐNG LẠI SỰ CĂNG THẲNG THẦN KINH (STRESS)

Từ những năm đầu thập niên 1970, nhà sinh học JON KABAT JINN đã chú tâm đến những phản ứng liên quan giữa thân xác và tâm thức. Sau đó, ông nhanh chóng n   hận thấy muốn nghiên cứu về sự tương tác giữa thân xác và tâm thức phải nhờ đến các kỹ thuật thiền định dựa vào khái niệm “tâm linh tỉnh thức” (pleine conscience – mindfulness). Đó là cách làm cho tâm thức an bình để buông xã thân xác. Loại bỏ mọi ý nghĩa phụ thuộctính cách tôn giáo, hoặc ngoại laitính cách Đông phương, ông đề nghị một danh từ hoàn toàn mang tính cách khoa học cho phương pháp do ông đề xướng : giảm căng thẳng thần kinh bằng tâm linh tỉnh thức (mindfulnes- based stress reduction : MBSR). Ông KABAT-ZINN giải thích :”Đây là cách đưa thiền định vào việc trị liệu của y khoa”. Phương cách nầy trước hết là giúp phát huy sự chú tâm vào hiện tại, từng giây phút một và từng giây phút một. Đó là phương cách thiền định đã được “đơn giản hóa” mà ông giảng dạy trong khoa bệnh lý chữa trị căng thẳng thần kinh (stress) tại Đại học MASSACHUSETTS. Chương trình giảng huấn của ông khá đơn giản : một buổi thiền định kéo dài hai tiếng rưỡi, mỗi tuần một lần trong tám tuần liền, thêm vào đó mỗi buổi một giờ thực tập tại nhà. Từ 25 năm nay đã có hơn mười lăm ngàn người nhờ vào cách trị liệu nầy để chữa trị các chứng bệnh rất đa dạng như các bệnh về tim mạch, sida, đau nhức kinh niên, xáo trộn tiêu hóa của bao tử và đường ruột, nhức đầu, áp huyết cao, mất ngủ, lo âu và hoảng sợ. Cách trị liệu bằng thiền định nầy, tức MBSR, đã đem đến nhiều kết quả mỹ mãn, vì thế đã được đem ra giảng dạy cho sinh viên tại 29 trường đại học y khoa trên khắp nước MỸ. Ông JON KABAT-ZINN đã giải thích với Đức Đạt Lai Lạt Ma như sau: “Điều nầy đã làm thay đổi mối tương quan giữa bác sĩ và bệnh nhân”. Nhiều nghiên cứu về y khoa càng ngày càng chứng minh mạnh mẻ hơn về lợi ích của phép trị liệu trên đây. Trong số những nghiên cứu được đem ra phúc trình trong buổi hội nghi về Tâm linh và Sự Sống, cho thấy trong trường hợp bệnh vảy nến (psoriasis) [Ghi chú thêm của người dịch : đây là bệnh mãn tính ngoài da, da bị những mảng đỏ và tróc ra thành những vảy trắng], cách trị liệu nầy bằng tia sáng cực tím sẽ mang đến nhiều hiệu quả rõ rệt hơn nếu phối hợp với phương pháp thiền định MBSR. Ông KABAT-ZINN kết luận rằng :”Thiền định, nhờ vào tác động của nó trên sự căng thẳng thần kinh, có thể giữ vai trò thiết yếu để ngăn ngừatrị liệu những bệnh tật liên hệ khác”. Quan điểm nầy cũng đã được nhiều người tán đồng, chẳng hạn như ông ROBERT SALPOLKY, giáo sư sinh học và thần kinh học của Đại học STANFORD (Hoa Kỳ), ông JOHNSHERIDAN, giáo sư miễn dịch học Đại học OHIO STATE UNIVERSITY (Hoa Kỳ) và bà ESTHER STEMBERG, Giám đốc Chương trình khảo cứu về miễn dịch học của Viện Y tế Quốc gia National Institute of Health (Hoa Kỳ), (tương đương với tổ chức INSERM của nước Pháp).

ĐEM CÁC NHÀ SƯ VÀO PHÒNG THÍ NGHIỆM

Ông RICHARD DAVIDSON là một người bạn từ lâu của ông Kabat-Zinn, nhưng ông lại dùng một lối nghiên cứu rốt ráo hơn là lối trị liệu theo kinh nghiệm của ông Kabat-Zinn. Chẳng qua vì ông là một giáo sư về tâm lý học và tâm thần học tại Viện Đại học WISCONSIN (Hoa Kỳ), đồng thời ông cũng là giám đốc một phòng thí nghiệm siêu tân tiến trang bị máy móc, ghi nhận tín hiệu điện lực và hình ảnh cộng hưởng từ tính (IRM), những trang bị nầy đã giúp ông ghi nhận trực tiếp những sinh hoạt của não bộ. Vì thế ông đã chứng minh cho thấy việc thiền định đều đặn làm gia tăng sức hoạt động thuộc vùng phía trước của não bộ  bên trái (phần nầy gọi là võ não, thuộc phần trán phía trước : cortex préfrontal), vùng não nầy liên hệ đến sự quản lý những xúc cảm tích cực, và do đó đã tạo ra sức đề kháng hiệu quả hơn về miễn dịch. Sau hai tháng, một cuộc thử nghiệm về chủng ngừa cho thấy chất kháng thể tiết ra trong cơ thể của những người thực thi thiền định đều đặn cao hơn hẳn đối với những người không thiền định. Trong một cuộc thí nghiệm khác, với sự tham dự của một nhà sư người Pháp là thầy MATHIEU RICARD [Ghi chú thêm của người người dịch : thầy M. Ricard là tiến sĩ khoa học, con của một triết gia, nhà văn, bình luận gia, thuộc Hàn lâm viện của Pháp, chính ông nầy đã chọn một tên khác là J.F. Revel vì không muốn cả hai cha con cùng nổi danh dưới một tên như nhau. Hai người có viết chung một quyển sách tựa đề là Một Nhà Sư Và Một Triết Gia Với Đạo Phật Ngày Nay. Thầy M. Ricard tu theo Phật giáo Tây Tạng và thông dịch viên tiếng pháp chính thức của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Mẹ và chị thầy cũng quy y Phật giáo], ông RICHARD DAVIDSON và ông ANTOINE LUTZ (một người Pháp, cựu đệ tử của ông Francisco Varela), cho thấy sự sinh hoạt não bộ của những người tu hành đã thực thi hơn mười ngàn giờ thiền định phát ra những làn sóng gamma nhiều hơn gấp bội so với những người không quen thiền định. Ong WOLF SINGER, giám đốc Viện Max Planck tại Frankfurt (Đức), cũng có tham dự trong hội nghị, giải thích những vai trò của những làn sóng gamma là làm gia tăng sức sự điều hànhphối hợp mọi sinh hoạt của não bộ, giúp nhiều khu vực của não đồng bộ hóa sự sinh hoạt, và đồng thời cũng nâng cao cấp bậc tâm linh của những người tu tập thiền định nầy đã có sẳn từ trước trong những cá thể trên đây và đã góp phần thúc đẩy họ đi xuất gia, nhưng tuyệt nhiên không phải là những gì mà họ đã đạt được bằng sức mạnh thiền định kiên trì sau khi đã xuất gia rồi. Để trả lời cho giả thuyết nầy, hai ông LUTZ và DAVIDSON đem ra so sánh những “thành quả” của những nhà sư đã thiền định suốt 40.000 giờ và những nhà sư chỉ thiền định được 10.000 giờ. Kết quả hết sức kỳ lạ : các nhà sư càng thiền định được nhiều giờ, số lượng làn sóng gamma của họ phát ra càng cao, và hiện tượng nầy không lệ thuộc gì với tuổi tác của họ. Ông WOLF SINGER kết luận như sau: “Vì thế hình như sự tập luyện tâm linh có thể đưa đến một dạng thể tinh thần cởi mở hơn và một thể dạng tâm thức trong sáng hơn”. Mặt khác, những hình ảnh do cộng hưởng từ tính ghi nhận sự vận hành của các chức năng của bộ óc cho thấy các nhà sư sành sõi trong việc thiền định, sức hoạt động của vỏ não trán thuộc phần bên trái, liên quan đến những xúc cảm tích cực, gia tăng một cách rõ rệt. Hơn nữa, khi các hình ảnh chụp các cảnh tượng đau đớn đưa cho các nhà sư đang được thí nghiệm xem, tức khắc những vùng não bộ tương ứng với những vận hành đau đớn đã được các nhà khoa học biết trước liền bị kích động. Sự kiện nầy xảy ra giống như thiền định đã kích thích các nhà sư chuyển sang hành động để cứu giúp những người đang bị đau đớn. Thầy MATHIEU RICARD bình luận việc nầy như sau: “Rút lui khỏi thế giới nầy để thiền định, chắc chắn là cách chuẩn bị để trở nên công minh hơn khi quay trở về với thế giới chung quanh.


Bác sĩ
THIERRY JANSSEN

HOÀNG PHONG (Pháp) lược dịch | Văn Hóa Phật Giáo

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10404)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 12008)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9687)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10207)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10218)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19107)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14568)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 24254)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15328)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10321)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 21359)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10223)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19211)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 11340)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 18628)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 9259)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 15856)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 25581)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37840)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19524)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18606)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14203)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20066)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9478)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14334)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35512)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10629)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19653)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23164)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13340)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 20166)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10577)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9598)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 9161)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8467)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9743)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11184)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8284)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 14052)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9877)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15163)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12535)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 11289)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12051)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11016)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36362)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8936)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 17230)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10442)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12174)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13585)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 9128)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24765)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11616)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10297)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 14482)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12975)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12417)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 9553)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10108)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant