Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Biết Vọng Là Chánh Tu

09 Tháng Năm 201910:56(Xem: 2308)
Biết Vọng Là Chánh Tu

BIẾT VỌNG LÀ CHÁNH TU 

Chân Hiền Tâm

Ngày mới đến với đạo, tôi không có trí để đọc học hay tham cứu các loại kinh luận bình thường, vì vậy tôi chỉ biết nương vào pháp Biết vọng không theo của Hòa thượng Trúc Lâmthực tập.
Hy vọng, sau khi ứng dụng pháp đó, đầu óc tôi sáng sủa ra một chút, có thể đọc thông hết tất cả kinh luận. Không phải như ngày ấy, ngay cả những tập sách nhỏ của Hòa thượng, của ngài Suzuki v.v… đọc thì có mà không lưu lại được chút gì trong đầu. Có chăng, chỉ vài ba câu ngắn ngủi đơn giản như “người tại gia vẫn tu được” v.v.., và một cái tên Maha của kinh Pháp bảo đàn. Hy vọng đó rất lớn trong tôi. Tôi đã có niềm tin như vậy. Có lẽ do kinh nghiệm những đời trước còn đọng lại trong tạng thức Cũng không hiểu vì sao lúc ấy lại tin vào pháp Biết vọng không theo của Hòa thượng mạnh đến vậy, dù không hiểu gì về pháp ấy, dù ngày ấy nhiều người đã lên tiếng chê bai bằng những dòng luận lý khá dài. Biết chê nhưng không biết vì sao họ chê, vì không hiểu gì về pháp Biết vọng. Có lẽ không phải chỉ mình tôi mà đa phần thường ít nắm rõ về pháp mình đang tu. Nắm, nghĩa là biết rõ nguyên do vì sao mình phải thực hành như thế, pháp ấy có tác dụng thế nào đối với thân tâm của mình. Ít người biết về điều đó. Chỉ bằng lòng tin là chính. Cho nên, khi gặp khó khăn, có người đã sợ hãi và bỏ cuộc. Tôi cũng đã có lúc muốn bỏ cuộc. Nhưng nhờ nghiệp quá khứ trợ duyên mà không thể bỏ. Vượt qua và kéo dài cho tới bây giờ. Khi cần vẫn Biết vọng không theo để tạo an ổn cho mình.  Vì sao không chỉ đọc học là đủ mà phải có pháp hành?  Vì chỉ đọc học thôi thì không đủ giải quyết những phiền nãova chạm ở đời, huống là muốn có Định-Tuệ.  Trong cuộc sống đời thường đây, muốn có định tĩnh cũng phải tự mình tập định tĩnh, không thể chỉ nương vào đọc và học mà có định tĩnh. Đọc học không thể tạo ra an định cho mình mà chỉ trợ duyên giúp mình biết cách làm thế nào để an định bản thân, làm thể nào để thanh lọc tham-sân-si, không trực tiếp giúp mình tiêu trừ tập khí, tập nghiệp. Đại sư Hám Sơn nói: “Bước đầu của sự tu thiền là phải quên tất cả thấy nghe hiểu biết… Thiền giả phải hoàn toàn gạt bỏ các thấy nghe hiểu biết trước của mình. Ở đây, uyên bác hay thông minh đều vô ích… Bất cứ khi nào một ý tưởng móng khởi, phải cố tìm ra căn nguyên của nó, đừng để nó hiện hành dễ dàng hoặc bị nó hoặc loạn. Nếu chư vị tu tập như vậy, chư vị đang làm một công việc vững chắc”1. Việc đó cho thấy đọc học không đủ năng lực giúp hành giả có Định có Tuệ, là nền tảng cần cho mục tiêu mà mình đã đặt ra.  Sao không dừng ở giữ giới, bố thí mà phải có Chỉ-Quán?  Vì đang nói trong phạm vi tu thiền, lại là Tổ sư thiền. Tổ sư thiền lấy Kiến tánh thành Phật làm tông chỉ. Tức chủ trương chính của Tổ sư thiền là phải kiến tánhthành Phật. Ngay khi kiến tánh, chính là Phật, đó là Phật nhân. Nhưng do “Đa sinh tập khí thâm”2, nên ngộ rồi vẫn chưa thể nhập, cần phải có quá trình thanh lọc tập khí, Phật quả mới thành tựu. Đó là lúc thể, tướng và dụng của Phật tâm hiển bày đầy đủ, chính là Phật quả.  Đã lấy việc Kiến tánh thành Phật làm tông chỉ, thì không thể không dùng đến Chỉ-Quán. Vì Chỉ là hành tác giúp chúng ta dừng tâm vọng tưởng. Nó là pháp căn bản chủ yếu trong các pháp hành. Các pháp như tham công án v.v… đều có tác dụng giúp chúng ta dừng tâm vọng tưởng của mình. Nói chính xác là dừng cho được lực của dòng vọng niệm. Bởi lực của vọng nếu không dừng, thì chân dù ngay đó vẫn không thể nhận. Do lực này mà chúng sinh như con thiêu thân, bị hút trôi theo cảm xúcsuy nghĩ của mình. Một niệm khởi lên, ngay đó liền trượt dài, rồi theo đó mà đi cho đến khi cái quả hiện ra. Nếu không có Quán để biết, không có Chỉ giúp dừng, không biết bao giờ mới sống được với chân thể thanh tịnh dù nó luôn sẵn đó.  Biết vọng không theo cũng là một Chỉ-Quán.  Việc đầu tiên của Biết vọng không theo, là phải nhận ra vọng đang hiện hành trong tâm mình. Thứ gì hiện lên trong tâm, đều gọi là vọng. Ngay khi nhận ra có vọng thì vọng tạm dừng. Tùy tâm thức của từng người mà quá trình diễn biến của tâm có khác nhau, nhưng đa phần tâm chúng sinh đều diễn biến như thế.  Biết thì vọng tạm dừng, nhưng vì lực vọng còn mạnh nên vọng lại sinh. Nếu có tâm kiềm giữ không cho vọng khởi thì xảy ra tình trạng nặng đầu. Khi vọng dừng đó, gọi là Chỉ. Biết có vọng, chính là Quán. Ngay Quán có Chỉ. Chỉ không lìa Quán. Chỉ-Quán song hành.  Các hành giả khi dụng công được miên mật, đều thấy vọng ngày mỗi nhiều. Đó là tác dụng chung của hầu hết các pháp hành. Đại sư Hám Sơn nói: “Khi dụng công được tốt đẹp, các sự vật ở thế giới ngoại tại sẽ không làm phiền chư vị lắm, nhưng phiền phức ở chỗ các vọng niệm sẽ khởi dậy kịch liệt trong tâm trí chư vị mà không có nguyên nhân rõ rệt nào cả”. Cũng nói: “Đôi khi khát vọng và lòng dục tuôn trào, đôi khi một mối xao xuyến không mô tả được lộ ra, nhiều trở ngại khác cũng xuất hiện, tất cả những trở ngại này sẽ làm mệt thân tâm của chư vị...”3.Khi ứng dụng pháp Biết vọng không theo, hành giả cũng phải trải qua giai đoạn như vậy. Những trở ngại khó chịu ấy, Đại sư Hám Sơn gọi là “những kinh nghiệm phiền não”. Chúng xuất hiện là do “nỗ lực thiền định của chư vị gây ra, làm hiện hành các chủng tử tập tục ẩn sâu trong tàng thức của chư vị từ thời vô thủy”4. Ngài cũng dạy: “Ở giai đoạn quyết định này, chư vị phải nhận ra chúng hoàn toàn, và vượt qua chúng. Đừng bao giờ xem chúng là thực… Nếu chư vị dụng công như vậy, chẳng mấy chốc tin lành sẽ đến với chư vị”. Đây là giai đoạn cực kỳ khó khăn của người tu Phật. Mệt mỏi đến mức chỉ muốn bỏ cuộc. Nhưng tôi không bỏ cuộc vì không thể bỏ được. Chỉ nhận ra rằng, dừng vọng một khi đã thành thói quen, cũng tạo ra lực của nó, cứ theo guồng đó mà đi, không làm gì được nữa. Như khi ngồi trên lưng cọp, đau khổ cười trừ, muốn xuống mà không xuống được. Nhưng rồi… quá trình khổ ải chấm dứt. Một chân trời mới hiện ra.  Hỏi: Là Tổ sư thiền, Lục tổ nói: “Pháp môn của ta đây, lấy Định-Tuệ làm gốc”. Đây sao không nói Định-Tuệ mà nói Chỉ-Quán?  Đáp: Hành giả mới tu thiền, không thể một bước có liền Định-Tuệ mà phải nhờ vào Chỉ-Quán, Định-Tuệ mới hiện tiền. Nên nói Chỉ-Quán mà không nói Định-Tuệ. Song chúng là nhân là quả của nhau. Đại sư Hám Sơn nói: “Chỉ là nhân, Định là quả. Quán là nhân, Tuệ là quả”5. Ngay khi dùng Chỉ để dừng sự tán loạn của tâm, ta có Định. Ngay khi biết có vọng khởi lên ở tâm, chính là Tuệ. 

Việc chính của người tu Phật  Như vậy, việc chính của hành giả tu thiền cầu Phật đạo là làm sao ứng dụng pháp hành để dứt cho được dòng tương tục. Nói chính xác là làm sao để vọng trở lại đúng vị trí của nó, không còn lực dẫn người đi trong luân hồi sinh tử. Chính vì vậy, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Biết vọng là chánh tu. Làm các điều lành là trợ tu”6.  Chánh, là biết vọng. Muốn biết vọng thì phải phản quan tự kỷ, quan sát lại chính mình. Nói phản quan, vì đa phần chúng sinh đều có thói quen hướng ra ngoài soi rọi đúng sai. Giờ tu hành, phải hướng cái thấy ấy trở lại mình. Không có động tác ấy thì khó mà tu thiền, khó mà thấy được những sinh khởi trong mình để không theo. Cho nên, khi Trần Nhân Tông hỏi Tuệ Trung thượng sĩ “Tông chỉ của việc bổn phận là gì?”. Tuệ Trung thượng sĩ trả lời: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”7. Bổn phận của người tu là xoay cái nhìn trở lại mình, không theo nơi khác mà được.  Như vậy, ăn cơm, uống nước, lao tác, sinh hoạt v.v… đều phải lấy việc phản quan làm chính, tức xoay lại quán thân tâm của mình. Việc này được thể hiện khá rõ trong bài kinh Tứ niệm xứ thuộc kinh Trung bộ, tập I:  “Tỉnh giác, vị ấy thở vô. Tỉnh giác, vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy tuệ tri thở vô dài. Thở ra dài, vị ấy tuệ tri thở ra dài. Thở vô ngắn, vị ấy tuệ tri thở vô ngắn. Thở ra ngắn, vị ấy tuệ tri thở ra ngắn…”. Tuệ tri, là cái biết trí tuệ. Sao gọi là biết trí tuệ? Vì không thông qua suy tưởng. Pháp thế nào ghi nhận đúng thế ấy, như gương soi cảnh vật.  “Lại nữa, này các Tỷ-kheo! Tỷ-kheo đi, tuệ tri tôi đi. Đứng, tuệ tri tôi đứng. Ngồi, tuệ tri tôi ngồi. Nằm, tuệ tri tôi nằm. Thân thể được sử dụng như thế nào, vị ấy tuệ tri thân như thế ấy…”.  “Lại nữa, này các Tỷ-kheo! Tỷ-kheo, khi bước tới bước lui, biết rõ việc mình đang làm. Khi ngó tới ngó lui, biết rõ việc mình đang làm. Khi co tay, khi duỗi tay, biết rõ việc mình đang làm. Khi mang áo Sanghati (Tăng-già-lê), mang bát, mang y, biết rõ việc mình đang làm. Khi ăn, uống, nhai, nếm, biết rõ việc mình đang làm. Khi đại tiện, tiểu tiện, biết rõ việc mình đang làm. Khi đi, đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, nín… biết rõ việc mình đang làm…”.  “Này các Tỷ-kheo! Ở đây Tỷ-kheo khi cảm thọ cái vui, tuệ tri đang cảm thọ cái vui. Khi cảm thọ cái khổ, tuệ tri đang cảm thọ cái khổ. Khi cảm thọ cái không khổ không vui, tuệ tri đang cảm thọ cái không khổ không vui…”. “Này các Tỷ-kheo! Ở đây, Tỷ-kheo với tâm có tham, tuệ tri tâm có tham. Với tâm không tham, tuệ tri tâm không tham. Với tâm có sân, tuệ tri tâm có sân. Với tâm không sân, tuệ tri tâm không sân...”.  Đó là một trong các cách giúp người tu phản quan. Phản quan như vậy có tác dụng giúp hành giả ý thức được những gì đang xảy ra như chúng đang là, cũng giúp tiêu trừ lực tương tục của dòng vọng niệm.  Phật không chỉ dạy chúng ta biết rõ thân tâm mình đang diễn biến thế nào trong hiện tại, mà trong kinh Tư lượng8, Phật còn dạy “Nếu trong khi quán sát, Tỷ-kheo thấy rõ các bất thiện pháp chưa được đoạn trừ trong nội tâm, thì chư Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ...”. Tức hành giả không những cần biết rõ những gì đang hiện khởi nơi thân tâm mình,mà còn phải đoạn trừ chúng nếu chúng thuộc các bất thiện pháp. Đó là điểm mà hành giả cần lưu ýBiết vọng, Biết vọng rồi buông hay Biết vọng không theo cũng không ra ngoài lý ấy.  Chỉ là, muốn nhận lại chân thì vọng phải mất lực, nên tất cả các niệm thuộc thiện hay bất thiện đều phải đoạn trừ. Như Lục tổ nói với Thượng tọa Minh: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?”9  Biết vọng, là biết những gì khởi lên trong tâm là vọng. Muốn biến những thứ đang thấy như thật đây trở về đúng bản vị của nó là vọng, hành giả phải đoạn cho được lực tương tục của dòng vọng niệm.Đoạn đó, tuy thấy là đoạn niệm, nhưng thật là giúp đoạn lực tương tục. Đoạn đó chính là buông hay không theo. Buông hay không theo đều diễn tả tình trạng không còn bị dòng tương tục dẫn chạy.Có khác, là do vọng còn lực hay không lực. Vọng còn lực, thành tương tục, thì cần tác ý đoạn trừ, nên nói buông. Vọng mất lực rồi thì như mây bay qua trời, sinh rồi tự diệt, không cần tác ý đoạn trừ, nên nói không theo. Cho nên, Biết vọng buông, Biết vọng không theo hay chỉ cần Biết vọng thôi đều là hình thức ly niệm, chỉ tùy thô tế mà thấy có khác nhau. 

Thực hành như thế, miên mật được thì tương lai nhất địnhtin tức, hiện tại cũng không có thời gian hướng ngoại mà sinh thị phi hay phân biệt ta-người. Nếu khôngtin tức, là do công phu chưa được miên mật, chỉ dụng tâm trong thời khóa tọa thiền, bình thường thì buông lơi.  Không nên lấy phụ làm chính  Tuy việc chính của hành giả tu thiền là phản quan biết vọng, nhưng không phải ai cũng đủ năng lựcđiều kiện để hành trì miên mật. Nên ngoài chánh tu còn có trợ tu, đó là làm các điều lành. Điều lành là những việc thuộc phước thiện như bố thí, trì giới, lao tác, công quả v.v…  Nói phụ, tức nó không phải là việc chính của người tu thiền, mà chỉ là thứ dùng hỗ trợ cho việc chính. Hỗ trợ, là nhờ nó mà việc chính được tốt hơn, không phải vì nó mà việc chính bị đình trệ. Đó là việc mà một hành giả tu thiền cần lưu ý.  Một vài lúc, có những việc tôi phải làm, có thể gọi đó là việc gia đình, cũng có thể coi nó là lúc mình phải trả những gì mình đã vay từ quá khứ, tôi nhận ra rằng, dù là việc phước thiện hay việc lợi ích cho người, nếu mất sức vào đó nhiều quá thì một thời ngồi thiền vào buổi sáng thôi, cũng không ngồi nổi, nói gì là ba thời. Chỉ là ngồi cho có, trong tình trạngmơ màng màng, không có sự tỉnh giác. Có lúc không thể ngồi luôn. Vì mệt, nên không ngồi nổi. Vì động, nên ngồi xuống là muốn đứng lên. Bởi động, vốn là nền tảng để con ngườithế giới xuất hiện, nên động là năng lực rất mạnh của con người. Chưa đủ thời gian để lắng yên cái động cũ, giờ làm nhiều quá, coi như huân tiếp cái động thêm mạnh. Khó mà yên vị được một chỗ. Khó mà điều phục được thân tâm. Trợ lúc này chẳng còn là trợ, đã trở thành việc phá hoại công phu của người tu hành.  Song việc đó không có gì nghiêm trọng, nếu ta ý thứclợi hại của việc đang làm. Mất ít thời khóa vì việc chung vẫn hy sinh được. Bởi có những việc không thể không làm, không thể từ chối. Việc chỉ trở nên nghiêm trọng khi ta không ý thức được thứ gì là chính, thứ gì là phụ. Khi không ý thức được điều đó, thì chính sẽ thành phụ và phụ trở thành chính. Chúng ta sẽ dùng luôn quỹ thời gian tu học để tập trung phục vụ cho công quả, phước thiện, ăn uống, ngủ nghỉ, chơi bời. Coi như nói tu thiền mà thiền đâu không thấy, chỉ thấy lan man theo việc phước thiện, công quả, ăn uống. Việc tới đâu mình theo tới đó, khuếch trương mạnh ra, không có ý để dừng. Không có việc cũng tìm cho ra việc để làm.Sao cho phù hợp với cái tâm vọng động của mình.  Cho nên, phân được chính phụ rõ ràng rồi, trên sự cũng cần có thời khóa sao cho phù hợp với quy trình “phụ hỗ trợ chính”, việc tu hành mới mang lại kết quả tốt đẹp. Không thì mọi thứ chỉ có trên hình thức. Phụ ngày càng phát, chính ngày càng mất. Tu hành bao năm mà không làm chủ được ái dục, thị phi hơn thua vẫn lẫy lừng là do không hàng phục được động tâm. Định không có, nên không thể dừng được tập nghiệptập khí của mình. Tuệ không đủ, nên không thể phân được việc gì chính, việc gì phụ, việc gì nên làm, việc gì không nên làm, nhận giả làm thật. Định tuệ không đủ nên không thể soi thấu được thực tướng các pháp để không dính mắc.  Tuệ chỉ thật sự có khi tâm có Định  Tuệ mà chúng ta nói đây, không phải là những gì chúng ta học hỏi được từ người khác. Nó là những gì lưu xuất từ hông ngực của chính mình. Muốn nhìn các pháp đúng như chính nó, ta phải sử dụng được phần Tuệ này.  Tuệ này chỉ có khi tâm có Định. Dù có Định rồi không hẳn là đã có Tuệ. Nhưng muốn có Tuệ nhất định tâm phải có Định. Định này xuất hiện khi chúng ta hàng phục được vọng tâm của mình.  Để đạt được Định, Đại sư Trí Khải nêu ra ba cách giúp chúng ta dừng tâm10. Đó là Hệ duyên thủ cảnh chỉ, Chế tâm chỉ và Thể chân chỉ.  1- Hệ duyên thủ cảnh chỉ: Buộc tâm tại chóp mũi và giữa rốn… khiến tâm không tán loạn. Kinh nói: “Buộc tâm không buông lung, cũng như xích con vượn”. Đây là mượn cảnh để giữ tâm. Hành giả cần chuyên tâm vào một điểm để dừng sự tương tục của dòng vọng niệm. Nói cách khác, nhờ sự chuyên tâm vào một điểm mà lực giác hiện tiền. Nó là phương tiện giúp hành giả đạt được định tâm khi tâm đang quá tán loạn nhưng cái giác lại không đủ lực để giác vọng hay dừng vọng. Vì là phương tiện nên nó chỉ được dùng trong khoảng thời gian nào thôi, và thường là thời gian đầu mới dụng công. Tâm bớt tán loạn thì không dùng nữa.  Tôi từng dụng pháp này để giữ cái biết của mình, giúp cái biết có lực. Tôi không tập trung ở chóp mũi hay giữa rốn mà tập trung vào điểm giao của hai cây đan len. Ngồi suốt như thế mấy tháng, người liệt hết một bên, mới dừng. Nó giúp cái biết của tôi hiện tiền hơn. Biết và vọng cùng hiện tiền… để sau đó cả hai cùng mất.  2- Chế tâm chỉ: Tâm vừa khởi liền kềm hãm lại, không cho nó rong ruổi tán loạn. Kinh nói:“Năm căn, tâm là chủ. Thế nên các ông phải khéo dứt tâm”. Đây là dùng cái giác (biết) để dừng tâm. Nói tâm vừa khởi liền kềm hãm lại, là khi cái biết biết được có niệm thì niệm tạm dừng. Dừng rồi, nhưng do lực vọng còn mạnh nên vọng lại khởi. Khởi rồi, lại biết và dừng. Phần này tương tự như pháp Biết vọng liền buông mà Hòa thượng Trúc Lâm đã dạy.  3- Thể chân chỉ: Khi tâm khởi niệm, tất cả pháp đều biết do nhân duyên sinh, không có tự tánh thì không chấp. Tâm không chấp thì vọng niệm dứt, nên gọi là Chỉ. Như bài kệ ghi trong kinh: “Trong hết thảy các pháp/Nhân duyên sinh không chủ/Dứt tâm suốt nguồn gốc/Gọi là vị Sa-môn”. Đây là dùng Trí duyên khởi để dừng tâm mà được Định. Gọi là Thể chân chỉ vì loại Chỉ này dùng Trí dừng tâm, không do dụng công tác ý đè nén mà tâm dừng như hai loại Chỉ trước. Vì vậy, muốn dùng được loại Chỉ này, đòi hỏi lực tương tục của dòng vọng niệm phải dứt11. Đây nói lực tương tục dứt, không nói vọng niệm dứt.  Trên là ba loại Chỉ giúp hành giả tu thiền đạt được Định.  Dù có Định nhưng nếu không Quán vô thường, vô ngã, duyên khởi thì không thể phát Tuệ. Không phải cứ có Định là có Tuệ. Có Định mà thấy có Tuệ, là do trong quá trình tu Chỉ đồng thờitu Quán, gọi là Chỉ-Quán song hành. Ngoại đạo tu Chỉ không tu Quán nên Định có mà Tuệ không, thần thông tuy có mà rơi vào các kiến chấp đoạn, thường, có, không v.v… không đạt đượcvô ngã mà Phật đã nói, không sống lại được với Phật tánh của mình.  Kinh nghiệm rút ra là…  - Người mới tu thiền, quan trọng là điều hòa hơi thở. Hơi thở điều hòa thì thân tâm dễ điều hòa. Thở bụng, hơi thở sâu và dài, phù hợp với người tu thiền hơn là thở phổi, hơi thở ngắn và cấp bách.  - Tu hành muốn có kết quả thì việc dụng công cần miên mật. Miên mật, là không chỉ dụng công trong thời tọa thiền mà đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống, lao tác thảy đều dụng công như Phật dạy trong bài kinh Tứ niệm xứ. Kinh Đại phẩm cũng nói: “Phật bảo Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát khi đi thì biết đi, khi ngồi thì biết ngồi, cho đến mặc y tăng-già-lê, nhìn, chớp mắt… đều nhất tâm, ra vào đều trong thiền định, chính người ấy là Bồ-tát Đại thừa”. Đại sư Trí Khải bàn rằng: “Hành giả nếu trong tất cả chỗ đi, đứng, ngồi, nằm, thấy, nghe, hiểu biết… mà tu Chỉ-Quán, ấy là người chân thật tu theo Đại thừa”12.Nếu công phu được đắc lực thì ngay khi ngủ tâm vẫn dụng công.  - Đã dụng công trong đi, đứng, nằm, ngồi thì mọi sinh hoạt trở nên kỹ càng, chậm rãi. Quán tâm thì không hướng ngoại quán trần, đó là bối trần hợp giác. Nếu thấy khởi niệm và nảy sinh thị phi thì biết đã mất tâm theo cảnh, là bối giác hợp trần.  - Chân thể thanh tịnh thì không động, do bất giác tâm động mà có thân cănthế giới. Gốc vốn không động nhưng hình thành nên thân tâm hiện nay lại nhờ động, nên động là thứ gần như ai cũng sở hữuquen thuộc hơn tịnh. Quen thuộc thì những hoạt động mang tính động sẽ phù hợp với mình hơn là những hoạt động mang tính tịnh. Tọa thiền hay tu Chỉ chính là phương tiện giúp mình lìa động nhập tịnh. Song kẻ sơ cơ, không phải muốn là đã có thể tọa thiền cả ngày. Thân sẽ sinh bệnh, tâm sẽ sinh chướng. Vì thế cần có những pháp hỗ trợ như kinh hành, đi bộ, yoga, hay các lao tác công quả nhẹ nhàng vừa phải để điều hòa, giữ tâm. Không cấp bách, ồn náo.  Thời tôi bắt đầu tu tập, yoga không có, nên tôi không dùng yoga vào thiền. Hiện tại, khi hướng dẫn một số em, tôi thấy tịnh hóa thân tâm không phải là việc dễ dàng với người quen động. Tập yoga là phương tiện khá hay giúp các em biết cách thở bụng. Tập trung tâm ý vào các động tác cũng giúp các em thực hành chánh niệm dễ hơn. Yoga giúp thở bụng, giúp tập trung tâm ý nhưng không phải ngồi một chỗ như tọa thiền, nên có thể coi nó là cầu nối giữa việc quá động và tịnh hóa dần thân tâm. Cũng giúp các em giữ được sức khỏe, thân thể dẻo dai, bền bỉ. Đương nhiên, chỉ nên dừng ở phần yoga giúp chúng ta tịnh hóa thân tâm,những gì xa hơn, không nên đụng tới.  - Lao động là việc không thể thiếu với người tu thiền, vì nó giúp giải tỏa bớt nghiệp động, nhưng không nên lao động quá mức. Cũng không nên chuyên tâm vào nó quá nhiều. Bởi quá mức thì thân tâm trở nên mệt mỏi, không còn sức để tọa thiền.Chuyên tâm vào nó quá nhiều, sẽ lơ đễnh các việc khác. Đó là quy luật tất nhiên. Chú tâm vào cái gì thì những cái khác sẽ bị bỏ mặc. Cho nên, chính và phụ cần phân minh rõ ràng. Không thì cứ theo thói đời mà đi, quanh năm chỉ loay hoay trong mấy việc làm sao ăn cho ngon, lao động sao cho đạt thành tích, và… ngủ nghỉ cho qua một kiếp người

Chân Hiền Tâm

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33361)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34406)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54457)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37634)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21096)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17852)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63566)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17325)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49581)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16829)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16344)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14443)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22395)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 56911)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13804)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 28964)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33239)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38301)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31170)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13864)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14578)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14267)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12615)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14780)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19169)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13784)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12607)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30331)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11778)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30591)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29321)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30517)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31138)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 36972)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32156)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23592)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12180)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14189)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14038)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 33915)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27660)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12408)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28543)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29283)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12345)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29145)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 27928)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25591)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 25974)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22190)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33063)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31747)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39527)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22335)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34393)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27294)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28302)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 35176)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 31860)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 35019)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant