Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tại Sao Phải Tu Thiền?

15 Tháng Mười 202007:21(Xem: 2979)
Tại Sao Phải Tu Thiền?
TẠI SAO PHẢI TU THIỀN?

Bhante Henepola Gunaratana 
Diệu Liên Lý Thu Linh

Định Nghĩa Chánh Niệm

Hành thiền không dễ. Nó đòi hỏi thời giannghị lực. Nó cũng đòi hỏi sự kiên định, kỷ luật và đam mê. Nó đòi hỏi nhiều cá tính mà chúng ta thường xem là khó chịu và tránh né chúng bất cứ khi nào có thể. Ta có thể tóm tắt rằng thiền đòi hỏi một tinh thần dám nghĩ, dám làm.

Không thể phủ nhận là ngồi xem truyền hình thì dễ hơn nhiều. Vậy tại sao ta phải quan tâm đến thiền? Tại sao phải lãng phí thời giannăng lượng, khi ta có thể đi ra ngoài tận hưởng mọi thú vui. Tại sao? Rất đơn giản. Vì chúng tacon người. Và cũng chính vì sự thật đơn giản: bạn là con người; bạn cảm thấy mình phải đón nhận bao thất vọng, khổ đau trong cuộc sống mà không thể làm chúng biến mất đi. Bạn có thể đẩy nó khỏi sự chú tâm của mình trong một khoảng thời gian nào đó; bạn có thể tìm quên lãng trong bao nhiêu tiếng đồng hồ nào đó, nhưng chúng luôn trở lại - thường vào những lúc bạn không ngờ nhất.

Bỗng nhiên, tựa như trên trời rớt xuống, bạn sẽ ngồi dậy, nhẩm tính lại, và nhận thức về hoàn cảnh thực sự của mình trong cuộc đời. Có điều gì không ổn với bạn? Bạn túng thiếu? Bạn sợ hãi? Bạn làm gì cũng thất bại. Bạn chỉ là một chúng sanh. Bạn phải hứng chịu cùng loại bệnh truyền nhiễm với mọi chúng sanh. Đó là con quỷ bên trong tất cả chúng ta, và nó có nhiều bộ mặt với nhiều cánh tay: sự căng thẳng triền miên, thiếu sự cảm thông đối với người, cũng như bản thân (kể cả những người gần gũi với bạn nhất), đè nén cảm xúc, giết mòn tâm hồn. Không có ai trong chúng ta hoàn toàn thoát khỏi chúng. Ta chạy trốn chúng. Ta xây cả một nền văn hóa để che giấu chúng, giả vờ là chúng không có mặt, và vùi đầu vào các dự án, mục tiêu, lo lắng về chỗ đứng của mình trong xã hội. Nhưng chúng không bao giờ mất đi. Chúng là luồng sóng ngầm dưới mọi suy tưởng, là tiếng nói thầm thì trong đầu không ngừng, “Chưa tốt đủ. Chưa đâu. Cần phải có nhiều hơn. Tốt hơn. Cần phải tốt hơn”. Đấy là con quỷ. Con quỷ có mặt ở khắp nơi dưới nhiều hình thức thô, tế vô tận.

Nhưng bản chất trải nghiệm của ta thì thay đổi. Thay đổi không ngừng nghỉ. Cuộc sống trôi qua trong từng khoảnh khắc, và không bao giờ giống nhau. Sự biến đổi không ngừng là bản chất của vũ trụ giác quan. Một tư tưởng vừa khởi lên trong đầu, nửa giây sau nó biến mất. Rồi một tư tưởng khác đến, sau đó cũng qua đi. Một âm thanh chạm đến tai, rồi im lặng. Mở mắt ra và cả thế giới ùa vào, chớp mắt, chúng lại biến mất. Người đến rồi đi qua cuộc đời bạn. Bạn bè xa rời, người thân ra đi. Vận may của bạn trồi sụt. Đôi khi bạn thắng, và cũng nhiều khi, bạn thua. Nó không ngừng như thế: thay đổi, thay đổi, thay đổi; không hai giây phút nào giống nhau.

Không có gì sai với điều đó. Biến đổibản chất của vũ trụ. Nhưng văn hóa nhân loại đã dạy chúng ta những cách phản ứng kỳ lạ đối với dòng chảy không dừng dứt này. Chúng ta phân loại kinh nghiệm. Chúng ta cố dán nhãn mọi suy tưởng, mọi thay đổi tâm lý trong dòng chảy vô tận này, bằng một trong ba khung trạng thái: tốt, xấu hay trung tính, không đáng để tâm đến. Sau đó, tùy theo cái khung đã chọn, chúng ta cảm nhận sự việc bằng một số phản ứng tâm lý quen thuộc. Nếu điều gì được cho là “tốt”, ta sẽ cố nắm giữ ngay tại đó. Ta bám vào đó, nắm chặt, ôm cứng, cố không để nó thoát khỏi ta. Khi điều gì đó không xảy ra theo như ý, ta lại bằng mọi cách cố lặp lại với hy vọng nó sẽ xảy ra theo như ý.

Hãy gọi thói quen tâm lý này là “chấp”. Ở phía bên kia của tâm là cái khung được dán nhãn “xấu”. Khi ta xem điều gì đó là “xấu” thì ta cố đẩy nó ra xa. Ta cố chối bỏ, chống báng, chỉnh sửa nó. Ta cố hủy bỏ nó bằng mọi cách có thể. Ta tranh đấu chống lại ngay cả trải nghiệm bản thân của mình. Ta chạy trốn những gì thuộc về ta.

Hãy gọi thói quen tâm lý đó là “tẩy chay”. Giữa hai phản ứng này là cái khung có nhãn dán “trung tính”. Chúng ta bỏ vào khung đó các trải nghiệm không tốt, không xấu. Chúng trung tính, nhạt nhẽo, bàng bạc. Chúng ta dồn các trải nghiệm vào khung trung tính này để bỏ lơ chúng, để quay về lại nơi nhộn nhịp, nơi của hành động, được gọi là vòng vô tận của ái và sân. Như thế khung của các trải nghiệm “trung tính” không được ta quan tâm đủ.

Hãy gọi thói quen tâm lý này là “thờ ơ”. Kết quả trực tiếp của tất cả những thứ điên cuồng này là một cuộc chạy đua không có đích đến, dồn dập chạy theo dục lạc, trốn chạy không dừng nghỉ khỏi khổ, và không dừng bỏ qua bao trải nghiệm của mình. Rồi ta lại hỏi sao cuộc sống vô vị. Kết luậncách sống đó thất bại. Dầu bạn có cố gắng chạy đuổi theo dục lạc, tiếng tăm khó nhọc đến thế nào, cũng có nhiều lúc bạn không thành công. Dầu bạn có đào tẩu nhanh tới đâu, cũng có nhiều lúc khổ đau bắt kịp bạn.

Và giữa những khoảng thời gian ấy, cuộc sống trở nên nhàm chán đến độ bạn có thể hét lên. Tâm bạn đầy các quan điểm và phê phán. Bạn xây các bức tường quanh mình và bị kẹt trong nhà tù của chính cái thích và không thích của mình. Bạn đau khổ. Bạn  không thể có được mọi thứ mình muốn. Điều đó bất khả thi.

May mắn thay, bạn có sự lựa chọn khác. Bạn có thể học cách kiểm soát tâm, để thoát ra khỏi cái vòng quay vô tận của tham và sân. Bạn có thể tập không muốn những gì bạn thường muốn, để nhận ra các ham muốn nhưng không để chúng làm chủ mình. Điều đó không có nghĩa là bạn sẽ nằm xuống để mọi người có thể dẫm đạp lên. Điều đó có nghĩa là bạn tiếp tục sống bình thường, nhưng sống với một quan điểm hoàn toàn mới. Bạn làm những điều cần làm, nhưng không để hấp lực của chính các ái dục của mình sai khiến, làm chủ mình. Dầu có muốn điều gì đó, bạn cũng không chạy đuổi theo nó. Có sợ điều gì đó, bạn cũng không cần phải đứng run rẩy.

Sự huân tập tâm linh này rất khó. Đòi hỏi thời gian. Nhưng cố gắng để làm chủ mọi thứ là điều không thể; khó khăn đến độ không thể. Bạn không thể thay đổi triệt để cách sống của mình, trừ khi bạn bắt đầu thấy mình đúng như bạn đang là. Lúc đó, những sự chuyển đổi sẽ tự nhiên đến. Bạn không cần phải ép buộc, đấu tranh với bất cứ điều gì, hoặc tuân theo mệnh lệnh của ai đó có thẩm quyền. Sự thay đổi tự động xảy ra; và bạn thay đổi.

Nhưng để đạt được cái thấy ban đầu đó là một việc khá vất vả. Bạn phải biết mình là ai, như thế nào mà không ảo tưởng, phê phán, hay có sự chống đối nào. Bạn phải xem lại vị thế của mình trong xã hộichức năng của mình với tư cách là thành viên trong xã hội. Bạn phải xét đến các bổn phận và nghĩa vụ của mình đối với đồng loại, nhưng trên hết là bổn phận đối với bản thân với tư cách là một cá nhân sống cùng với các cá nhân khác. Và cuối cùng, bạn phải thấy tất cả rất rõ ràng là một đơn vị duy nhất, một tổng hợp của sự tương quan liên hệ không thể giảm thiểu.

Nói thì có vẻ phức tạp, nhưng nó có thể xảy ra tức tốc. Sự vun bồi tâm linh qua hành thiền là vượt bậc trong việc giúp bạn đạt được sự hiểu biếthạnh phúc bình an đó. Thiền được gọi là Đại sư phụ (Great Master). Nó là lò lửa thanh lọc tâm, hoạt động chậm nhưng chắc, qua trí tuệ. Bạn càng có hiểu biết, bạn càng kham nhẫn, uyển chuyển, từ bi. Bạn trở thành những cha mẹ, hay các bậc thầy lý tưởng. Bạn luôn sẵn sàng tha thứquên lãng. Bạn cảm thấy dễ cảm thông với người vì bạn hiểu họ, và bạn hiểu họ vì bạn hiểu bản thân mình. Bạn đã quay nhìn vào tận bên trong, đã thấy sự tự ảo tưởng và những sa ngã, yếu kém của con người, để học thương yêutha thứ. Khi bạn đã biết thương mình, từ bi với mình, thì lòng thương cảm cho người khác sẽ tự động có mặt.

Một vị chứng thiền đã đạt được sự hiểu biết về cuộc sống thấu đáo. Vị đó liên hệ với thế giới bằng một tình yêu thương sâu đậm, không phê phán. Thiền rất giống như sự vun xới, khai vỡ một mảnh đất mới. Để biến rừng thành đồng bằng, trước tiên ta phải đốn cây, dời gốc. Sau đó phải xới đất, bón phân, gieo giống, và thu hoạch. Để vun trồng tâm, trước tiên ta phải dọn sạch những ô uế trên đường - nhổ tận gốc rễ để chúng không mọc trở lại. Sau đó bón phân: ta dồn năng lượng và kỷ luật vào mảnh đất tâm. Sau đó gieo giống, và thu hoạch sản phẩm của tín, giới, niệm và tuệ.

Mục đích của hành thiền là sự chuyển hóa bản thân. Cái “tôi” trước khi đi vào trải nghiệm thiền không giống với cái “tôi” sau đó. Thiền chuyển hóa cá tính của ta bằng quá trình tạo sự nhạy cảm, bằng cách khiến ta ý thức sâu xa đến ý nghĩ, lời nói và hành động của bản thân. Ngã mạn sẽ bay hơi, sự kỳ thị người khác sẽ cạn kiệt. Cuộc sống của ta sẽ bằng phẳng hơn. Vì vậy, thiền, nếu hành cho đúng, chuẩn bị cho ta đối mặt với những sự vô thường trong cuộc sống. Nó làm giảm căng thẳng, lo âusợ hãi. Trạo cử tiêu giảm, đam mê trở nên chừng mực. Mọi thứ bắt đầu có chỗ đứng, và cuộc sống của ta trở nên nhuần nhuyễn, thay vì là đấu tranh. Tất cả những điều này xảy ra là nhờ có trí tuệ.

Bhante Gunaratana
Diệu Liên Lý Thu Linh
(chuyển ngữ theo Why Bother With Meditation?)
Bhante Henepola Gunaratana, người Sri Lanka, là một Trưởng lão thuộc truyền thống Phật giáo Nguyên thủy. Sau khi qua Mỹ năm 1968, Sư lấy bằng tiến sĩ về Triết họcĐại học American tại Washington D.C. Sư đã qua các nước châu Âu, châu Á, Úc và Nam Mỹ để hướng dẫn nhiều khóa tu thiền.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9543)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 10426)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 12033)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9697)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10217)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10231)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19136)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14600)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 24288)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15350)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10340)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 21402)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10234)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19242)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 11354)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 18682)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 9272)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 15903)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 25641)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37864)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19580)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18661)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14254)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20092)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9496)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14366)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35559)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10650)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19696)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23196)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13357)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 20201)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10597)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9611)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 9195)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8491)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9755)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11203)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8294)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 14081)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9905)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15202)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12565)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 11320)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12075)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11035)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36402)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8957)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 17259)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10467)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12196)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13629)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 9144)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24801)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11631)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10310)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 14514)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12996)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12441)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 9565)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant