Hỏi: Kính thưa Thầy, khi hành Thiền Vipassanā làm sao để biết mình đang trong Định, cận Định hay sát-na Định. Khi con trình Pháp với Thiền Sư trong khóa tu học, con hiểu là con đã trải nghiệm trạng thái Định một số lần. Kính xin Thầy giải thích con trạng thái cận Định và sát-na Định là như thế nào ạ?
- Phần lớn hành giả tưởng mình hành Thiền Vipassanā nhưng trên thực tế họ đang hành thiền Định. Trong Vipassanā định hòa quyện với giới và tuệ. Giới định tuệ là ba trong một không thể tách rời nhau. Đừng cố ý tách Định và Tuệ ra riêng biệt, hoặc tách Định Tuệ ra khỏi Giới.
Giới Định Tuệ tuy là 3 yếu tố khác nhau nhưng trong thiền Minh Sát không tách rời được vì đã hòa vào nhau thành một. Trong đó rất cần sát-na định mà sát-na định rất khó hiểu, nếu có thể hiểu được qua lý trí thì liền mất thiền Vipassanā ngay. Khi trọn vẹn với thực tại không còn một khái niệm nào nữa thì lúc đó chính là sát-na Định, bởi vì quá khứ qua rồi tương lai chưa đến chỉ còn hiện tại luôn luôn trôi chảy không dừng lại, luôn luôn là hiện tại không có quá khứ hay vị lai, nhưng khoảng giữa quá khứ và vị lai ấy thì biến chuyển từng sát-na. Do đó khi thật sự trọn vẹn với pháp, lúc đó chỉ trọn vẹn một sát-na thôi. Nhưng trọn vẹn một sát-na có nghĩa là quên hết khái niệm thời gian (không quá khứ không tương lai) mà "chỉ có pháp hiện tại, tuệ quán chính là đây”.
Vì hiện tại chỉ tồn tại từng sát-na, sát-na này là một sự kiệnsinh diệt cực nhanh nên chỉ người chứng ngộ mới thấy ra. Hãy quên đi đừng nghĩ đến sát-na, chỉ trọn vẹn như thực tại đang là, thì lúc đó mới chính là sát-na định. Nếu khởi lên tâm muốn biết sát-na định, cận định v.v… là gì thì liền mất Giới Định Tuệ và rơi vào khái niệm hoặc ảo tưởng. Từ trọn vẹn rất khó hiểu, nếu ai vào được thì liền thông suốt Thiền. Ngay khi trở vềtrọn vẹntỉnh thức với thực tại đang là, thì không còn nói "tích cực, miên mật, tìm kiếm, theo dõi, ghi nhận" gì cả vì ngay đây chính là Tuệ quán rồi.
Và đã trọn vẹntỉnh thức trong hiện tại tức lúc đó là "không sinh, không hữu, không tác, không thành", hay “không, vô tướng, vô tác, vô cầu” thì còn ai tích cực miên mật, tìm kiếm, theo dõi điều gì nữa? Sự trọn vẹn đó chính là sát-na định vi diệu trong thiền Vipassanā, nên tốt nhất là chỉ trọn vẹn thôi đừng cần tìm hiểu nó làm gì. Vì không thấy ra điều này nên tuy nói hành Vipassanā nhưng ít ai thực sự vào được thiền này, chỉ khi nào buông hoàn toàn mọi ý đồ trở thành, chỉ còn trọn vẹntỉnh thức trong hiện tại thì đó mới là sát-na định trong thiền Vipassanā.
Hỏi: Con cảm ơn Thầy, con đã hiểu trạng thái khi hành Thiền Vipassanā, nhưng không hiểu sao con đang đi hành Thiền Vipassanā mà lại có định ạ, cảm giác đi như bay và sau đó trạng thái đó không bao giờ hiện trở lại?
- Trở lại để làm gì, trải qua thì chỉ trọn vẹn thấy biết thôi. Bởi vì cảm giác đó thực ra cũng chỉ từ ảo tưởng mà ra, nên đã qua rồi còn tiếc gì nữa. Sở dĩ con cứ vào định là do nhầm lẫn chánh niệmtỉnh giácvới tầm tứ nên mới như thế. Nhiều hành giả không hiểu đúng chánh niệmtỉnh giác trong thiền Minh Sát nên đã hành theo tầm tứ trong thiền định. Vì hành theo tầm tứ nên mới phải tích cực, miên mật, tìm kiếm, theo dõi và ghi nhận đối tượng theo hướng định. Hành theo hướng thiền Vipassanā là buông hết mọi nỗ lực tạo tác trở thành hay sở đắc.
Thiền Tông nói rằng "bách xích can đầu tấn nhất bộ” tức trên đầu sào trăm trượng còn phải nhảy thêm một bước thì buông hết, không có chỗ nào để bám trụ. Buông hết, không có trụ vào đâu cả thì mới trọn vẹn với thực tại đang là. Tập trung vào đối tượng nào đó chính là hành thiền định, là trụ mất rồi. Trong thiền định (hữu vi hữu ngã) có mâu thuẫn là vừa muốn trụ lại vừa mong đạt tới cái gì đó ở tương lai. Thành ra, vừa trụ mà lại vừa muốn trụ để trở thành, nên cả hai đều trở ngại chi thiền Vipassanā.
Khởi tâmnỗ lựctích cực miên mật với ý đồ nắm bắt hay đạt được gì đó là đã đánh hỏng Vipassanā ngay từ đầu. Hoàn toàn phản lại lời Phật dạy trong kinh TứNiệm Xứ là khi soi sángtrọn vẹn thân thọ tâm pháp thì tuyệt không tham ưu, không bám trụ bất cứ điều gì. Nếu tiếp tục hành kiểu bám trụ như vậy thì đến cùng cũng vẫn vậy thôi. Chỉ khi nào đầu sào trăm trượng nhảy một bước nữa - buông ra hoàn toàn chỉ có tại đây và bây giờ như pháp đang là, không thêm bớt gì cả - thì lúc đó mới vào Vipassanā. Thiền Vipassanā không phải là hành mà là ngộ. Chữ Vipassanā có nghĩa là thấy ra, thấy ra ngay tại đây và bây giờ, chẳng có gì để hành cả. Trong thời Đức Phật, khi Ngài khai thị cho người nào mà người ấy thấy ra thì liền chứng ngộ.
Hỏi: Thưa Thầy, con đọc trong sách Ngài Mahasi giảng Vipassanā là khi thở mình phải ghi nhậnhơi thở của mình và thấy phồng xẹp ở bụng, đó có phải tầm tứ trong Thiền Định không thưa Thầy?
- Đó chính là tầm tứ, nhưng do người dịch sai chứ không phải Ngài sai. Ngài nói là nhận biết sự thở vô thở ra bằng chánh niệmtỉnh giác nơi sự chuyển động của thân (phồng xẹp) mà người ta lại dịch là ghi nhậnhơi thở, do đó hành giả lại hành theo tầm tứ nơi hơi thở. Thí dụ, Thầy đưa Tay lên thì liền nhận biết động tác đưa lên, đưa tay xuống thì nhận biết diễn biến đưa xuống chứ không ghi nhận lại gì cả. Nhận biết và ghi nhậnhoàn toàn khác nhau!
Trong Thiền Tông có câu: "Nhạn quá trường không ảnh trầm hàn thủy. Nhạn vô di tích chi ý, Thủy vô lưu ảnh chi tâm." Khi con nhạn bay qua hồ nước, ảnh nó hiện xuống mặt hồ, khi con nhạn bay qua rồi, nhạn không có ý để lại dấu tích làm gì, và nước cũng không có ý lưu giữ bóng hình con nhạn làm gì. Tâm Vipassanā cũng như vậy "Sự lai nhi tâm thỉ hiện. Sự khứ nhi tâm tùy không" Việc đến thì tâm ứng tiếp, thấy biết nó như thật. Việc qua rồi thì thôi, trở về tâm rỗng lặng. Pháp là vô ngã mà sao phải ôm đồm chi cho mệt, Vipassanā chỉ là thấy ra sự thật thôi. Nhạn bay qua thì cái hồ thấy ra, nhạn đi rồi hồ chẳng giữ lại. Chẳng cần tích cựcnỗ lực miên mật để ghi nhận gì cả, việc gì đến thì làm, làm xong thì thôi. "Phong lai sơ trúc, phong khứ nhi trúc bất lưu thanh" gió thổi qua thì tiếng trúc lao xao, gió qua rồi trúc liền lặng lẽ. Tích cựctìm kiếmghi nhận gió lại để làm gì?
Trong thiền Vipassanā, cái gì đến thì thấy đi rồi thì thôi, đừng định danh hay kết luận nó là gì cả. Chính vì hành Vipassanā sai, nên sinh ra tầm tứ, mà tầm tứ thuộc về Thiền Định. Khi trọn vẹn với thực tại thì không còn thời gian, nên Đức Phật dạy rằng, trở lại mà thấy (Ehipassiko) là thấy ngay (sandiṭṭhiko) nơi thực tạihiện tiền (opanayiko) không trải quathời gian (akāliko) thì người trí liền tự chứng (paccattaṃ veditabbo viññūhī).
Nếu lập trình để trở thành thì làm sao thấy ra ngay được. Tiến trình trở thành thuộc về Tục Đế, cũng như việc nấu cơm từ vo gạo rồi đặt nồi lên bếp đến cơm chín. Tạo tác để trở thành thuộc về Tục Đế, Thiền Định hay bất cứ loại Thiền tạo tác nào cũng đều thuộc về Tục Đế. Trừ phi đó là Chánh Định trong Giới Định Tuệ trọn vẹn trong tâm từng sát-na. Giới Định Tuệ này không rơi vào tạo tác để trở thành.
Vipassanā là thấy ra Chân Đế không phải để đạt đượcTục Đế. Nếu không hiểu đúng Thiền Vipassanā thì dù hành cả đời cũng không thể nào giác ngộ.
Để đánh giá cao thái độ khác biệt trong tư tưởngPhật giáo sơ thời đối với những cảm thọdễ chịu, bản tường thuật về hành trìnhgiác ngộ của chính Đức Phật đưa ra những chỉ dẫn hữu ích.
Khi chúng tathực hànhchánh niệm mỗi ngày, chúng ta mở ra những điều tuyệt vời của đời sống, điều ấy cho phép chữa lành thế giới và nuôi dưỡng chính chúng ta
“Nói Thiền tôngViệt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
Sách thuộc loại song ngữ Việt- Anh gồm 95 bài thi kệ thiền, dịch Việt bởi Thiền sư Thích Thanh Từ, Giáo sư Lê Mạnh Thát và nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn. Tác giả dịch sang Anh ngữ với lời ghi chú nơi mỗi bài. Sách đã được phát hành hạn chế tại Việt Nam và rộng rãi trên mạng Amazon.
Nếu như đi bộ là một môn thể dục không tốn tiền và lúc nào cũng có thể tập được thì thiền là một pháp tu không mất thời gian và lúc nào cũng có thể thực tập được.
Quá trình hóa giải sự hoang mang bối rốidựa trênviệc làm cho tâm chúng ta ổn định và thêm sức mạnh cho tâm. Chúng tathực hiện việc này bằng cách thực hành thiền.
Ngày mới đến với đạo, tôi không có trí để đọc học hay tham cứucác loạikinh luậnbình thường, vì vậy tôi chỉ biết nương vào pháp Biết vọng không theo....
Stress : có nghĩa là sự dồn nén, cưỡng ép trên cả hai mặtsinh lý và tâm lý, một trạng thái căn thẳng thần kinh, gây ra lo âu, sợ sệt và sau cùng là sự suy nhược cơ thể.
Thực tậpthiền định và chánh niệm không những giúp ích cho sức khoẻ chung trong cuộc sống cá nhân mà còn giúp cho cả bác sĩ và bệnh nhân trong việc chữa trị bệnh được hiệu quả hơn.
Từ trước đến nay, trên sách báo, tạp chí, trong nhiều băng giảng, cho đến chư vị thiền sư, nhà nghiên cứu đó đây, ai cũng nói đến chánh niệm, và lại nói nhiều cách khác nhau.
Luyện tập thiền định có thể làm giảm tình trạngcăng thẳngtâm thần, các xúc cảm tiêu cực và cải thiện giấc ngủ, các hiệu ứng này có thể tạo ra các tác độngtích cực đối với quá trình lão hóa của não bộ.
Nếu bạn tinh tấnchánh niệm hàng ngày, bằng cách tích cực hành thiền trong ba mươi phút hay một giờ, và chánh niệm tổng quát vào mọi tác động hàng ngày thì bạn gặt hái nhiều điều tốt đẹp.
Sống trong thời đạivăn minh, con ngườicần phảihọc hỏi để theo kịp trào lưu tiến bộ trong nhiều lãnh vực như Y học, Não học, Tâm lý học, Địa chấn học, Thiên văn học, Vũ trụ học v.v
Trong buổi nói chuyện này, tôi sẽ đặc biệt bàn về cái mà chúng ta vẫn gọi là sự đau khổ cùng với con đườngquán niệm nó theo đúng tinh thần của pháp mônTuệ Quán (Tứ Niệm Xứ).
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.