Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tại Sao Chỉ Chánh Niệm Thôi Là Không Đủ

23 Tháng Chín 202215:53(Xem: 1314)
Tại Sao Chỉ Chánh Niệm Thôi Là Không Đủ

Tại Sao Chỉ Chánh Niệm Thôi Là Không Đủ

SARAH SHAW

Vô Minh 

 Bước Đầu Tập Hành Thiền



Học giả Sarah Shaw giải thích tại sao chánh niệm phải kết hợp với đạo đứctừ bi và trí tuệ - trong Phật giáo và trong cuộc sống.

Phong trào chánh niệm hiện đại đã lan tràn khắp nền văn hóa quốc tế, và giống như nhiều Phật tử khác, tôi cảm thấy hấp dẫn và hài lòng về điều này. Như Đức Phật đã nói, chánh niệm là một con đường dẫn đến hạnh phúc. Nó đặt trách nhiệm cho trạng thái tinh thần của chúng ta ngay tại nơi nó thuộc về: trong chính chúng ta. Đó là một cách hiệu quả để làm việc và cảm thấy thoải mái với tâm trí của chúng ta.

Khi việc thực hành chánh niệm cơ bản ngày càng phổ biến, sẽ rất hữu ích nếu xem xét triết lý Phật giáo — cụ thể là Bát chánh đạo cao quý và những giáo lý ban đầu về tâm lý học gọi là Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) — nói gì về chánh niệm và những gì nó có thể làm. Trong Phật giáochánh niệm không chỉ là sự thực hành độc lập của sự chú tâm đơn thuần mà còn mang lại nhiều lợi íchChánh niệm là một phần quan trọng của con đường hoàn toàn dẫn đến giác ngộ.

 

Chánh niệm có khuynh hướng thân thiệnmỉm cười an vui trước khó khăn.

 

Trong cuộc khủng hoảng đại dịch hiện nay, một hình ảnh Phật giáo cổ xưa cho sự chánh niệm luôn hiện về trong tâm trí tôi. Trong phép ẩn dụ này, chánh niệm giống như một người gác cổng canh giữ một thành phố nằm ở biên giới nguy hiểm. Nó quan sát cẩn thận những ai ra vào, bảo vệ thành phố khỏi những tên trộm và kẻ thùđồng thời cho vào du khách và hàng hóa mà thành phố cần để tồn tại và để mọi người được hạnh phúc. Thành phố được so sánh với tâm trí: các thành lũy ở trên cũng giống như trí tuệ, và thực phẩm và các nguồn cung cấp khác giống như nguồn dự trữ của việc thực hành thiền địnhMọi người trong thành phố cần phải làm việc cùng nhau để duy trì tốt, giống như các yếu tố trong tâm trí chúng ta. Sống trong thế giới của đại dịch có cảm giác như đang ở trong thành phố bị bao vây đó. Tất cả chúng ta đều gặp rủi ro, phải cẩn thận về những gì ra vào nhà của chúng ta. Tất cả chúng ta phải làm việc cùng nhau để vượt qua nó. Theo một nghĩa nào đó, chúng ta đơn độc - cuối cùng chúng ta là những người duy nhất chịu trách nhiệm về trạng thái tinh thần của chúng ta, “thành phố” - nhưng với tư cách là những sinh vật xã hộichúng ta cần sự ấm áp và thân thiện của con người.

Hệ thống tâm lý học Phật giáo được gọi là Vi Diệu Pháp thể hiện nhu cầu tương tác và toàn bộ tâm trí hoạt động cùng nhau rất tốt. Nó nói rằng khi chánh niệm hiện diện, một số yếu tố khác cũng xuất hiện một cách khá tự nhiên. Đối với các Phật tử, đây là một tin rất tốt: các yếu tố khác nhau của tâm thức tỉnh thức giúp đỡ lẫn nhau và có thể cùng nhau phát triển.

Nhiều yếu tố trong số này liên quan đến cách chúng ta liên hệ với những người khác trong cuộc sống hàng ngày. Vì vậy, có một ý thức đạo đức, với sự hiện diện của hai yếu tố được gọi là tự trọng (hiri) và quan tâm đến hậu quả (ottappa). Những điều này phát sinh khi chánh niệm xuất hiện.

Những yếu tố đạo đức này được gọi là “những người bảo vệ thế giới”, những điều khiển trực giác phát huy tác dụng khi có chánh niệm. Chúng theo dõi trạng thái tinh thần của chúng ta và cách chúng ta tương tác với người khác: chúng ngăn chúng ta làm hoặc nói điều gì đó có thể gây hại cho bản thân hoặc người khác. Chúng giống như những bản năng đạo đức có sẵn hoạt động khi chánh niệm hiện diện.

Điều này cũng có tác dụng trong cuộc sống hàng ngày. Hãy xem một ví dụ rất cơ bản. Nếu đi siêu thị, tôi cần phải tỉnh táo và sáng suốt, để chọn những thứ mình muốn và tìm những thứ phù hợp. Nhưng tôi cũng phải nhận thức được những người khác và cách tôi tương tác với họ. Nó không chỉ là chánh niệm của tôi! Nếu tôi đi đến trước mặt ai đó sắp mua một ít thức ăn cho mèo và chỉ phớt lờ họ để lấy vài hộp thức ăn cuối cùng cho mình, theo Vi Diệu Pháp, tôi sẽ không còn chánh niệm sáng suốt nữa. Tôi cũng không có đạo đức — tôi đã phớt lờ nhu cầu của người kia.

Vi Diệu Pháp nói rằng nếu có chánh niệm về cảm thọ và thể xác của chính mình, thì điều này bao gồm cả cảm thọ và thể xác của người khác. Và trong các tình huống xã hội, nếu có chánh niệm về cảm thọ, bạn sẽ ít có xu hướng đưa ra nhận xét khó chịu về người khác, bởi vì bạn lưu tâm đến ảnh hưởng của nó đối với tâm trí người khác và tâm trí của chính bạn. Một yếu tố khác mà Vi Diệu Pháp nói phát sinh cùng với chánh niệm là cảm giác thăng bằng. Thông thường trong cuộc sống, chúng ta phải nhận thức được một số điều diễn ra cùng một lúc. Nếu tôi đang nấu ăn, tôi cần cảm giác cân bằng để có thể theo dõi chảo đang sủi bọt, cách xoay sở để sắp xếp đồ đạc kịp thời cho bữa ăn và cách trả lời điện thoại nếu cần. Cân bằng, trong tiếng Pali tatramajjattata, có nghĩa đen là “ở ngay chính giữa,” giúp chúng ta thực hiện điều này. Điều này có cảm giác giống như việc bạn phải lái một chiếc xe đạp qua các sự kiện lung lay trong ngày. Đơn giản chỉ cần nhận thức về hơi thở như một thực hành chánh niệm trong ngày sẽ giúp chúng ta bắt đầu thực hiện điều này.

Một điều được cho là luôn luôn nảy sinh, dù chỉ là một chút, với chánh niệm là sự tự tin. Nếu bạn cảm thấy lo lắng trước khi gặp ai đó hoặc thuyết trình trước đám đông, thì Vi Diệu Pháp nói rằng sự tin tưởng sẽ nảy sinh nếu bạn lưu tâm đến cảm thọ đó. Lưu tâm đến tình huống sẽ tạo ra sự tự tin và giúp bạn trong những gì bạn đang làm.

Khi có chánh niệmVi Diệu Pháp nói một trong bốn brahmaviharas, hay “an trú thần thánh, (bốn tâm vô lượng” cũng sẽ phát sinh. Bốn là từ (loving-kindness), bi (compassion), hỷ (sympathetic joy), và xả (equanimity), và chúng sẽ phát sinh thích hợp với hoàn cảnh. Nếu có nhu cầu về sự thân thiện đối với một người, lòng nhân ái sẽ đến; nếu có nhu cầu chỉ cần buông xảbình đẳng sẽ phát sinh. Như thể chánh niệm tìm thấy những nguồn dự trữ cần thiết vào thời điểm đó. Một hình ảnh cổ khác so sánh điều này với một thủ quỹ của nhà vua, người tìm thấy số tiền mà nhà vua yêu cầu khi nó muốn. Chánh niệm, theo Vi Diệu Pháp, giúp hướng chúng ta đến những phẩm chất cần thiết khi hoàn cảnh đòi hỏi.

Chân lý cao quý thứ tư (Đạo trong Tứ Diệu Đế), con đường dẫn đến chấm dứt khổ đau và giác ngộ, nói rằng có tám cách (Bát Chánh Đạochúng ta có thể giữ con đường trung đạo và đảm bảo rằng tâm trí và thể chất của chúng ta được hạnh phúc và thiện lành. Chúng ta cần có một “cái nhìn” tốt về các sự kiện, và không được coi thường người khác, vì vậychính kiến ​​và ý định đúng đắn sẽ giữ cho thành phố của tâm trí được an toànChúng ta cần hành vi có đạo đức, dưới hình thức lời nói đúng đắn, sinh kế đúng đắn và hành động đúng đắn, để giữ hòa bình. Và để đảm bảo tâm trí được hạnh phúc và được bảo vệchúng ta cần cái thường được gọi một cách dễ dãi là "thiền", nhưng bây giờ có thể được coi là các hình thức phát triển tâm trínỗ lực đúng, chánh niệm và tập trung đúng. Tĩnh lặng có thể là một cách dịch khác cho sự tập trung (định), cho phép tâm trí được nghỉ ngơi, tự nạp lại năng lượng và trải nghiệm những tác động hồi sinh của sự yên tĩnh và thực hành thiền định.

Vì vậy, “chánh niệm” trong Vi Diệu Pháp là một cái gì đó khác với việc chỉ chú ý hoặc nhận biết một cách cơ bản. Vi Diệu Pháp nói rằng khi chúng ta nhận thứctâm trí của chúng ta cũng có xu hướng tìm kiếm các yếu tố tích cực khác một cách tự nhiênChánh niệm cần và phát triển mạnh mẽ đối với chúng, cũng như chúng cần chánh niệm để giữ cho chúng tươi mới và tỉnh táo.

Chánh niệm hoàn toàn đúng đắn này giúp ích cho cuộc sống hàng ngày. Nếu tôi có một người bạn đang buồn lo khi mất việc, tôi cố làm điều gì đúng đắn để giúp cô ấy — điều có thể gọi là hành động đúng — cũng cần chánh niệm. Cô ấy có thể đề nghị chúng ta đi chơi và say khướt. Nhưng rõ ràng là điều đó không giúp ích được gì cho cô ấy, hay tôi. Vì vậy, tôi cần phải khéo léo tháo vát và gợi ý cách để cổ vũ cô ấy, chẳng hạn như đi ăn một bữa ăn, nơi cô ấy sẽ cảm thấy tốt hơn chứ không phải tệ hơn. Như chúng ta thấy trong ví dụ này, chánh niệm đúng là đạo đức trực giác, không giống như phán đoán. Nó có xu hướng thân thiệnmỉm cười trước các vấn nạn, và nhận thức được nhu cầu của người khác cũng như của chính mình, và tìm ra các giải pháp khéo léo. Trong tâm lý học Phật giáotâm thức “khéo léo,” hay lành mạnh và tỉnh táo, đi kèm với nhiều yếu tốChánh niệm hỗ trợ và được hỗ trợ bởi những người khác, giống như một nhạc cụ được hỗ trợ bởi những người khác trong nhóm nhạc thính phòng. Trong Phật giáochánh niệm không bao giờ độc tấu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19527)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33411)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34476)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54517)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37719)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21130)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17875)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63641)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17379)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49655)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16864)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16370)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14484)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22448)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 56969)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13834)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29007)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33309)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38376)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31229)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13904)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14614)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14302)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12636)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14814)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19197)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13807)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12654)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30375)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11825)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30647)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29386)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30568)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31194)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37080)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32222)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23644)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12212)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14228)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14082)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 33958)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27710)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12443)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28615)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29344)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12383)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29209)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 27987)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25646)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26011)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22241)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33124)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31798)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39574)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22396)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34449)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27335)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28345)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 35247)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 31915)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant