Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thiền - Dòng Nước Mát Dập Tắt Ngọn Lửa Khổ Đau

30 Tháng Ba 202318:43(Xem: 732)
Thiền - Dòng Nước Mát Dập Tắt Ngọn Lửa Khổ Đau
Thiền - Dòng Nước Mát Dập Tắt Ngọn Lửa Khổ Đau

Sundara Mani dịch

Tám Ngọn Gió

Là một vị sư khiêm cung và trầm mặc đến từ Myanmar, Sayadaw Ashin Nanujjotabhivamsa thường trò chuyện về các nguyên tắc thực hành trong giáo pháp hơn là thảo luận về những người khác, thậm chí là hạn chế nói về thầy của mình, Sayadaw U Pandita.

Tuy nhiên, khó tránh khỏi việc người đời sau nhắc đến danh tiếng của vị thầy lỗi lạc nhất trong thiền Minh sát. Sư là học trò và là người kế thừa của Mahasi Sayadaw U Sobhana (1904–1982), người đã sáng lập ra truyền thống thiền Minh sát Mahasi (còn gọi là “Phương pháp Mahasi” hoặc “Phương pháp mới của Myanmar”).

Mahasi Sayadaw còn là vị thầy của nhiều nhà tiên phong của Phật giáo phương Tây, chẳng hạn như Alan Clements, Jack Kornfield và Joseph Goldstein. Cùng với những bậc thầy khác trong thế hệ của ngài, Mahasi Sayadaw đã có những đóng góp rất lớn đối với việc hồi sinh của thiền chánh niệm, cũng như tạo nên những nét nổi bật của Phật giáo phương Tây.

Sinh năm 1955 và bước chân vào con đường tập sự xuất gia khi mới 10 tuổi, Sayadaw Nanujjotabhivamsa thọ giới Cụ túc năm 20 tuổi; sau 3 năm sống ở tu viện, sư quan tâm đến những phương pháp thực hành của phương pháp Mahasi và nhanh chóng trở thành một hành giả xuất sắc dưới sự giám sát của ngài U Pandita.

Có lần sư đã nói một cách thích thú về phong cách giảng dạy của U Pandita rằng: “Sayadaw-ji [kính ngữ dùng để gọi các vị thầy lớn một cách tôn trọng] rất nghiêm khắc về giới luật. Ngài luôn kiểm tra các thiền sinh ở hai cấp độ: thiền sinh và những người hướng dẫn của thiền sinh đó. Khi thiền sinh gặp khó khăn trong tu tập, ngài sẽ đến gặp các vị hướng dẫn để thảo luận; hoặc ngài sẽ khuyến khích họ nếu các thiền sinh đang thực tập tốt. Ngài kiểm tra họ về mặt lý thuyết cũng như thực hành và luôn chú ý xem họ cần cải thiện hoặc điều chỉnh những gì”.

Sayadaw Nanujjotabhivamsa cũng làm theo phương pháp sư phạm của U Pandita khi dạy học trò. Khi nhìn lại những ảnh hưởng của vị thầy đến cách nhìn nhận và giảng dạy của mình, sư cho biết: “Mục đích duy nhất của Sayadaw-ji là giúp mọi người chứng nghiệm hương vị của giáo pháp. Ngài ấy chỉ tập trung hoàn toàn cho mục tiêu này”.

Sư tin rằng các đặc tính của phương pháp Mahasi đủ hiệu quảrõ ràng để thu hút các học viên từ khắp nơi trên thế giới đến với truyền thống này. “Thở vào và thở rađặc điểm cốt lõi của thiền Minh sát. Nhưng phương pháp Mahasi chọn chú tâm vào sự phồng xẹp của bụng. Đối với các hành giả, chuyển động vật lý này dễ dàng nhận biết hơn là chuyển động của hơi thở khi vào và ra khỏi mũi. Sự phồng xẹp của bụng rõ ràng hơn. Mọi người đều có thể cảm thấy bụng mình đang phồng lên và xẹp xuống, nhưng không phải ai cũng có thể nhớ rằng hơi thở của mình đang vào và ra”. Sayadaw Nanujjotabhivamsa chia sẻ.

Mặc dù phương pháp Mahasi tương đối nổi tiếng với các học viên phương Tây vì có nhiều người nổi tiếng đã thực hành nó, nhưng mục tiêu của thiền Minh sát này rất đơn giản và có kỹ thuật: hiểu đúng bản chất của các hiện tượng tâm lý-vật lý đang xảy ra trong cơ thể. Ngài Mahasi Sayadaw đã đưa ra kỹ thuật quan sát vùng bụng trong một bài pháp mang tính tổng quan:

“Đây là một đặc tính thuộc vật chất được gọi là vayodhatu (yếu tố của chuyển động). Bạn nên bắt đầu ghi nhận chuyển động này bằng sự chú tâm quan sát vùng bụng. Bạn sẽ thấy bụng phồng lên khi hít vàoxẹp xuống khi thở ra. Khi bụng căng lên thì tâm bạn ghi nhận rằng ‘phồng’, và khi hóp lại thì ghi nhận rằng ‘xẹp’.

Nếu bạn không thể cảm nhận chuyển động của bụng một cách rõ ràng, hãy ghi nhận như vậy và tiếp tục dùng lòng bàn tay chạm vào bụng nhưng không làm thay đổi cách thở của bạn, không khiến cho nó chậm lại, cũng không làm cho nó nhanh lên và cũng đừng thở quá mạnh. Bởi vì bạn sẽ mệt mỏi nếu thay đổi cách thở của mình. Hít thở đều đặn như bình thườngghi nhận sự phồng xẹp của bụng. Ghi nhận bằng sự chú tâm, không phải bằng lời nói”.

Mặc dù phương pháp Mahasi không phải là một phương thức cổ xưa, nhưng nó vẫn giữ được lý tưởng truyền thống của Theravada rằng chánh niệm không thể tách rời luân lýđạo đức. Chúng ta tập trung vào sự chuyển động là để trau dồi nhận thức sắc bén về các hiện tượng đang diễn ra của chính chúng tamở rộng nhận thức ra thế giới “bên ngoài”.

Sayadaw Nanujjotabhivamsa tin rằng thiền là phương tiện chính để khép tâm tâm trí vào kỷ luật, từ đó, một người có thể hành động một cách tỉnh thức và đưa ra những lựa chọn phù hợp với chuẩn mực đạo đức trong bối cảnh có vô số nhiễu loạn và ham muốn giác quanthế giới xung quanh. Làm chủ tâm trí một cách tự nhiên đồng nghĩa với việc làm chủ về hành vi đạo đức: “Một khi lưu tâm đến thân và khẩu thì bạn sẽ không vi phạm giới luật”.

Sayadaw Nanujjotabhivamsa dường như có những suy nghĩ rất sâu sắc về nhân sinh. “Người ta hầu hết đều thích tận hưởng những thú vui nhục dục và những điều phiền nhiễu. Công nghệ hiện đạitiện nghi vật chất đã khiến khả năng tiếp xúc với những thú vui này trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết, từ đó, làm tăng sự ham muốn của chúng ta đối với chúng. Họ theo đuổithực hiện những điều sai trái để đạt được hạnh phúc; nhưng cuối cùng, họ rơi vào tuyệt vọng vì không thể tìm được hạnh phúc trong những điều này. Họ đang cảm thấy mệt mỏi với tất cả những thú vui không mang lại hạnh phúc thực sự. Chỉ có thiền và trí tuệ mà nó đem lại mới là cách duy nhất để thoát khỏi vòng lẩn quẩn vô ích này”, sư chia sẻ.

“Sayadaw-ji từng nói về tình trạng hiện tại của nhân loại rằng trái tim của họ đang cháy trong phòng kín có gắn máy điều hòa nhiệt độ. Trong thế giới đương đại, chúng ta có rất nhiều tiện nghi công nghệ, nhưng những tiện nghi này không thể giải quyết tình trạng khó khăn căn bản của chính chúng ta. Ngài cũng chia sẻ rằng chúng ta giống như những con kiến, chúng ta yêu mật ong nhưng lại bị mắc kẹt và chết vùi trong đống mật.

Cũng vậy, con người tìm đến những thú vui, dục lạccuối cùng lại chết vùi trong dục lạc”. Nói đến đây, khuôn mặt trầm ngâm, đầy suy tư của Sayadaw Nanujjotabhivamsa sáng lên khi sư đề cập đến những từ như tập trung, tĩnh lặng và sáng suốt: “Những điều này rất quan trọng bởi vì một khi đã đạt được sự tĩnh lặng, bạn sẽ rất bình tĩnh, không còn dính mắc và có thể đưa ra những quyết định chính xác cũng như loại bỏ được trạng thái căng thẳng của tâm”.

“Để dập tắt ngọn lửa mà chúng ta đang phải chịu đựng, cần phải có dòng nước mát của thiền tập. Ngôi chùa giống như một trạm cứu hỏa mà bạn có thể tìm đến để dập tắt ngọn lửa. Nhưng phòng cháy luôn tốt hơn là chữa cháy. Và tôi cũng muốn dập tắt ngọn lửa của bạn”, sư nở một nụ cười nhẹ nhàng khi kết thúc câu chuyện của chúng tôi. Bản thân tôi tự hỏi không biết tôi phải thân cận và học hỏi sư bao lâu mới có thể dập tắt ngọn lửa của chính mình.

(Theo báo Giác ngộ)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33379)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34439)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54469)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37664)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21105)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17857)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63591)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17349)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49614)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16837)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16355)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14452)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22407)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 56927)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13815)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 28976)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33260)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38330)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31190)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13877)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14594)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14279)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12623)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14791)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19183)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13796)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12634)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30356)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11797)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30614)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29341)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30538)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31160)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37005)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32188)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23612)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12187)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14204)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14050)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 33936)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27689)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12421)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28575)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29304)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12363)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29173)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 27958)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25612)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 25985)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22213)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33080)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31763)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39547)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22354)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34412)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27308)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28324)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 35201)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 31875)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 35035)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant