Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 01: Đời người quý báu

18 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 11614)
Chương 01: Đời người quý báu

CHẾT AN LẠC, TÁI SINH HOAN HỶ
Nguyên tác Anh ngữ: Peaceful Death, Joyful Rebirth
của đại sư học giả Tulku Thondup
Việt dịch: HT. Thích Như Điển & TT. Thích Nguyên Tạng

Chương 01
Đời người quý báu

Đời người rất quý báu, với tiềm năng lớn, nhưng vô thường và đầy bất mãn. Vì vậy phải tận dụng cuộc đời này bằng cách tu tập ngay bây giờ.

Đời sống con người, vốn là khoảng thời gian ở giữa lúc ở trong bụng mẹ và lúc chết, thường có nhiều niềm vui và nhiều thành tựu, là nguồn ích lợi lớn. Nhưng đời sống cũng chịu nhiều hình thức đau khổ không thể tránh được, về tâm trí cũng như thể xác. Một cuộc đời khốn khổ cũng có vẻ trôi qua mau chóng và một cuộc đời hạnh phúc vẫn có thể chấm dứt với cảm giác không trọn vẹn. Như vậy cuộc đời là phù du và rốt cuộc không thỏa mãn khi nó dao động giữa những kinh nghiệm tốt và xấu, tức là giữa hạnh phúc và khổ đau mà chúng ta có vẻ không thể kiểm soát được.

Cuộc đời bắt đầu vào lúc thọ thai và chấm dứt với tiến trình “bệnh và chết” hay tai nạn nào đó để đưa đến cái chết. Thể xác và thần thức cùng hiện hữu một cách hài hòa khi chúng ta còn hơi thở và cơ thể còn hơi ấm. Khi hơi thở ngừng và hơi ấm không còn, thần thức và thể xác tách rời nhau, và người ta chết. (Theo PG thì khi mạch ngừng lại, người ta có thể chưa chết. Khi sờ vào ngực người hấp hối mà thấy có hơi ấm thì người đó chưa chết, và có thể đang ở trong trạng thái thiền định).

BẢN CHẤT THẬT CỦA CON NGƯỜI

Thể xác không phải là con người thực sự, mà chỉ là nhà trọ, nơi thần thức hay tâm của chúng ta trú ngụ trong một thời gian. Khi thần thức rời khỏi nhà trọ đó, thể xác tan nhập trở lại vào những nguyên tố của tứ đại (đất, nước, gió, lửa). Thần thức sẽ tiếp tục tái sinh với một thể xác khác và danh tánh khác tùy theo nhân duyên quá khứ. Vận mạng tương lai của chúng ta, dù tốt hay xấu, là tùy thuộc vào những tâm tánh, những thói quen về tư tưởngcảm xúc, cũng như lối biểu lộ những thói quen đó bằng lời nói và hành động.

Bản chất thật của thần thức hay “tâm” là rộng mở, không và thanh tịnh. Phẩm tính của nó là hòa hợp, hoan hỷ, toàn trí và toàn hảo. Phẩm tính này gọi là “giác ngộ” hay “Phật tánh”. Tiếng Sanskrit gọi Phật là “Buddha”, có nghĩa là “Đấng Giác Ngộ”. Người nào cũng có Phật tánh. Tâm là trí tuệ thực sự không có lối suy nghĩ nhị nguyên, vốn có tính chất tự giới hạn, phân chia kinh nghiệm đời sống thành chủ thể và đối tượng, “mình” và “ người khác”. Tính chất thật của tâm là “toàn trí”, trông thấy tất cả cùng một lúc và “bất nhị”, và là sự đơn nhất vô giới hạn. Trong “cõi chân không” của chúng ta, không chỉ có tâm trí hay trí tuệ, mà còn có không gian vô hạn và thời gian vô cùng.

Vậy tại sao tất cả chúng ta không biết đến chân tâm của mình? đó là vì tính chân thật của tâm đã bị che phủ bởi những ý niệm nhị nguyên quen thuộc của trí phân biệt vốn luôn luôn phân biệt, so sánh, gây ra những cảm xúc não phiền, tham muốn. Tuy nhiên dù có những cảm xúc gồm tham, sân, si, ganh tỵ và ngạo mạn, tâm trí tuệ nội tại của chúng ta vẫn thanh tịnh, tức là vẫn trong sạch và không phiền não.

Để khám phá tính chất của tâm trí, chúng ta phải chí thànhtinh tấn thực hành thiền quán. Chúng ta phải nhận biếtthiền quán về chánh kiến, chánh tư duy, tình cảm đúng, niềm tin đúng và lối sống chân chánh. Nhưng dù chỉ có ý tưởng là mình có chân tâm thanh tịnh thì chỉ riêng điều này cũng giúp chúng ta xây dựng niềm tin, tinh tấn tu tậpthúc đẩy chúng ta đạt đến mục tiêu chân chánh.

Có thể có những người nghĩ rằng tâm trítính chất chấp thủ và cứng nhắc, không thể tu sửa được. Có thể chúng ta cho rằng mình đã lún sâu vào những thói quen xấu nên khó gây dựng những lối nghĩ, lối nhìn và cảm xúc tốt. Nhưng thật sự là bất cứ lúc nào ta cũng có cơ hội để bắt đầu thực hành lối sống đúng hoặc thay đổi lối sống từ xấu thành tốt.

Sự thậttâm trí ta không phải là một giòng cố định. Nó không phải là một vật đơn nhất, thí dụ như một thanh sắt, mà là một chuỗi những khoảnh khắc thay đổi liên tục, giống như một chuỗi hạt được 'lần' từ hạt này đến hạt khác. Mỗi sự kiện là một loạt những thay đổi của sát na sinh và diệt, một kinh nghiệm tiếp theo sau một sự kiện khác và được kế tục bởi sự sinh ra của một sự kiện khác nữa. Người ta thường nghĩ rằng cuộc đời của mình là một giòng liên tục và đơn nhất, nhưng thật ra đó chỉ là một ảo ảnh, giống như một cây nhang được quay nhanh sẽ làm cho người ta trông thấy một vòng tròn ánh sáng trong bóng tối.

Nếu chúng ta chán nản hay cảm thấy bế tắc, như vậy thường là vì chúng ta không hiểu hết tính chất phù du của đời sống. Chúng ta chấp chặt vào những sự kiện như những đối tượng của tâm trí và xem chúng như những thực thể có thật. Nhưng sự thật là những sự kiện đã thay đổi ngay cả trước khi chúng ta nghĩ về chúng. Những sự kiệnchúng ta nghĩ tới chỉ là những cái bóng, những hình phản chiếu của những gì đã diễn ra.

Mỗi sự kiện, mỗi khoảnh khắc là một cái gì mới, giống như sự sinh con. Chúng ta có thể được uốn nắn và có thể tự giáo dục hay luyện tập như đối với một em bé sơ sinh. Qua thiền quán, chúng ta có thể sửa đổi ở mỗi khoảnh khắc sự kiện và do đó khám phá ra chân tính của mình.

Mục đích của thiền quán:

Đã có nhiều người thắc mắc về sự chú trọng thiền quán. Họ thấy thiền quán là sự tự nuông chiều, và còn có thể là vị kỷ hay đòi hỏi, vì nếu chỉ ngồi để hưởng tịnh lạc trong tâm trí của mình thì như vậy có ích lợi gì cho xã hội? Làm sao có thể nói là mình quan tâm tới người khác?

Sự thắc mắc như vậy là hiểu lầm thiền quán, và đó là vì đa số chúng ta chưa thấy rõ lợi ích của thiền quán.

Tất cả những gì chúng ta nghĩ hay cảm xúc đều sinh sản một ấn tượng tốt hay xấu tương ứng trong tâm thức (hay thần thức). Những ý nghĩ vô vị kỷ, hòa thuận hay vui vẻ sẽ gieo những hạt giống sinh ra những hình thể đẹp nhất, những âm thanh hay nhất và những cảm giác tốt nhất. Ngược lại, những ý nghĩ xấu sẽ sinh ra những quái vật, những âm thanh kinh khủng. Nhưng chỉ khi rời khỏi thể xác thô kệch, đi qua cõi trung ấm bardo thì chúng ta mới trông thấy và nghe thấy những hiện tượng này.

Thiền quánphương tiện tốt nhất để tạo những thân tướng, âm thanh, cảm giác tốt có thể giúp mình cũng như tất cả những người nào sẵn sàng cảm nhận chúng. Những người ở trong cõi trung ấm thân rất nhạy cảm với thiền quán và những lời cầu nguyện vì họ sống trong thế giới tâm linh, không có thân xác vật chất để gá vào, nếu họ nghĩ " New York" thì họ sẽ thấy mình đang ở New York. Nếu ngay đó họ nghĩ "London" thì London sẽ tức khắc là nơi họ đang đứng, theo sự cho phép của nghiệp báo. Cứ phiêu bạt như vậy, họ thường cảm thấy chán nản, sợ hãicô đơn.

Niềm an lạctâm từ bi mà chúng ta phát sinh qua thiền quán sẽ là chỗ tốt để những sinh linh trong cõi trung ấm thân nghỉ ngơi và trở nên tự tin, an tĩnhhoan hỷ. Thiền quán là cách giúp đỡ những sinh linh này tốt hơn là những ý nghĩ tán loạn và những tình cảm thông thường của chúng ta, vì nó phát xuất từ mức sâu hơn và an lạc hơn trong tâm trí của chúng ta. Giống như một cục nam châm, tâm trí trụ trong Thiền quán thu hút những thần thức phiêu bạt và làm cho họ ổn định hơn. Càng trụ trong thiền quán lâu hơn, chúng ta càng có thể an ủi những sinh linh này nhiều hơn và có nhiều cơ hội làm cho tương lai của họ tốt hơn.

Thiền quán cũng làm cho chúng ta giúp đỡ rất nhiều cho những người sống trong cõi vật chất này. Còn nếu tâm trí có đầy những cảm xúc xấu mà lại muốn giúp người khác, dù ở trong cõi vật chất, thì chúng ta có thể vô tình làm cho họ nhiễm những cảm xúc xấu đó.

Thiền quán là cách thanh lọc những bất tịnh, củng cố những tính tốt, và đánh thức chân tính của mình. Thiền quán có thể là sự chứng nghiệm những đức tính như tôn kính, an lạc, từ áisức mạnh, được phát sinh bởi những ý nghĩ và những tình cảm thành thực. Trong thiền định chúng ta có thể chứng nghiệm tâm giác ngộ. Như vậy thiền quánthiền định là một sự chứng nghiệm, một sự đạt tới, có tính chất thanh lọc và giúp thủ đắc kho tàng từ bi, an lạc, hoan hỷthành tín và do đó làm cho đời sống của chúng ta phong phú hơn, có thêm năng lực phục vụ người khác. Khi đã có nhưng phẩm tính đó, tất cả những gì chúng ta nói và làm cũng sẽ tự nhiên biểu lộphản chiếu những phẩm tính đó. Chúng ta trở thành nguồn từ bi, an lạchoan hỷ đối với tất cả những người nào tiếp xúc với chúng ta. Chỉ riêng sự hiện diện của chúng ta cũng mang lại sự an ủi cho người khác. Vậy, cũng giống như không quên gốc rễ của một cái cây nếu muốn nó mang lại hoa trái cho mình, chúng ta không thể lơ là với tâm trí của mình nếu muốn làm lợi ích cho người khác.

Ít nhất cũng ở mức lý trí, nhiều người trong chúng ta biết đến sự quan trọng của thiền quán nhưng lại bỏ qua hoặc không thực hành thiền quán. Lý dochúng ta biết nhưng không có hứng thú để thực hành. Vậy làm sao để có hứng thú thực hành thiền quán.

Có hai loại động lực căn bản để thực hành thiền quán: thứ nhất là cảm hứng, thứ hai là lo sợ. Đời sống là nguồn phong phú cho hai loại động lực này. Thí dụ, gặp một vị Thầy khác thường có thể là sự kiện gây cảm hứng cho chúng ta. Hoặc có thể là những sự kiện như bị bệnh, một người thân qua đời, hay một thảm kịch lớn xảy ra như tai họa sóng thần ở Nam Á và Đông Nam Á làm cho chúng ta thức tỉnhnhận xét đúng về cuộc đời.

Phật Giáo thúc đẩy chúng ta suy nghĩ sâu xa về năm tính chất của đời người vốn gây cảm hứng cũng như làm cho chúng ta lo sợ:

- Có đời sống đạo đức là điều quý hiếm

- Cuộc đờivô thường, luôn luôn biến dịch

- Những sự kiện trong cuộc đời đều là những nghiệp quả tốt hay xấu

- Cuộc đời đầy đau khổ

- Cuộc đời có tiềm năng đạt những mục tiêu cao nhất.

Những tính chất này không phải là giả tạo, mà là những sự thật về cuộc đời. Trước đây chúng ta đã không biết hay không quan tâm đến chúng, nhưng bây giờ chúng ta hãy chú ý đến những động lực tu tập này. Tại tu viện của tôi ở Tây Tạng, mỗi buổi sáng chúng tôi bắt đầu hành thiền bằng việc suy ngẫm về năm điều này. Chúng ta không cần phải ngồi thiềnquán niệm về chúng mà chúng ta có thể suy nghĩ về chúng ở bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào. Những điều này sẽ giúp cho chúng ta biết rõ bản chất thật sự của cuộc đời, đưa chúng ta đi vào trong đường đạo, và gây cảm hứng cho chúng ta tu tậpthọ trì Phật Pháp.

Đời người khó có được:

Cuộc đời rất quý báu vì nó là nền móng cho chúng ta xây dựng công trình tu tập không chỉ của kiếp này mà còn cho tất cả những kiếp sau. Cuộc đời dành cho chúng ta cơ hội để đạt đến giác ngộ, chứng nghiệm an lạc đích thực và tỏa chiếu những phẩm tính này để mang lợi ích đến cho chúng sanh. Nếu chứng ngộ chân tánh của mình, vũ trụ vạn vật sẽ trở thành nguồn an lạc cho chúng ta, và chúng ta cũng trở thành nguồn an lạc cho vũ trụ vạn vật.

Nếu chúng ta nhận ra sự quý báu của cơ hội này và hiểu giá trị của cuộc đời mình, chúng ta sẽ tức khắc cảm nhận và biết ơn cuộc đời. Sự biết ơn này sẽ trở thành sự cương quyết không lãng phí một khoảnh khắc nào của đời sống và dành trọn cuộc đời cho việc làm lợi ích với tất cả những khả năng của mình.

Chúng ta hãy xét xem có bao nhiêu sinh linh trên thế gian này có cơ hội dị thường này, vì khi xét như vậy chúng ta sẽ hiểu mình đã may mắn biết bao. Nhìn chung quanh chúng ta sẽ thấy có vô số sinh linh đang sống trên thế gian. Nếu lật một tảng đá lên, chúng ta thấy có hàng trăm côn trùng đang bò bên dưới. Nhìn qua kính hiển vi, chúng ta thấy có vô số sinh vật ở trong một giọt nước. Chỉ riêng ngay trong ruột của chúng ta cũng có hàng tỉ vi trùng. Theo Phật Giáo thì mỗi con vi trùng đó cũng có thần thức và cũng đang tìm hạnh phúc.

Thêm nữa, còn có vô số sinh linhchúng ta không trông thấy. Giống như tất cả những nền văn hóa cổ truyền khác trên thế giới tin rằng có những sinh linh vô hình như các vị thiên thầnma quỷ. Phật Giáo cũng tin rằng có vô số loài sinh linh vô hình đối với mắt thường của chúng ta, những sinh linh này hiện hữu giữa chúng ta, ở ngay chỗ mà ta đang ngồi và đang thở. Lý do chúng ta và những sinh linh đó không trông thấy nhau và không can thiệp vào đời sống của nhau, là vì chúng ta và họ không có liên hệ nhân quả với nhau để sinh ra sự nhận thức lẫn nhau.

Nhưng trong đời sống của loài hữu tình và vô tình rộng lớn và kỳ diệu này, loài người có tiềm năng lớn nhất để đạt đến giác ngộ, vì chúng tacảm hứng, có lý trí và có nỗ lực để tìm đến và đi theo con đường tâm linh.Trong khi đó loài súc sanhsinh linhđịa ngục chịu đau khổ và thiếu lý trí đến mức không thể có được một phẩm tánh giác ngộ nào cả. Các vị Thần trường thọ có thể may mắn hơn chúng ta vì họ có thân ánh sáng đẹp đẽ và có đủ thứ phúc lạc, nhưng họ không có những kinh nghiệm khổ vui lẫn lộn để gây động lực và khả năng tìm sự giác ngộ giống như loài người chúng ta, mà lại quá chìm đắm trong dục lạc của mình.

Tuy vậy, loài ngườithế gian, chúng ta cũng thấy có rất ít người có khuynh hướng hay có ý định nắm lấy cơ hội quý báu để tu tập và đạt giác ngộ. Nhiều người ngày nay không tin vào tín ngưỡngtôn giáo. Nhiều người không biết gì về tiềm năng tâm trí của mình, kể cả một số người có trình độ trí thức cao. Có lần một người trí thức nói với tôi:"tâm trí chỉ là một thứ nấm mọc ở trên bộ óc".

Nhiều người quá bận rộn với việc cuộc sống mưu sinh cơm áo và bệnh tật hoặc quá đam mê lạc thú mà không dành thời gian cho việc phát triển tâm linh. Những người khác thì dùng hết năng lực của mình cho việc đạt thành công vật chấtdanh tiếng thế gian. Lại có những người có một chút khuynh hướng tâm linh nào đó nhưng không đi đúng đường đạo, vì không gặp được minh sư hoặc đúng người hướng dẫn và đã chọn lầm giá trị. Như vậy chỉ có một phần nhỏ loài người có cơ hội phát triển tâm linh.

Giáo lý Phật Giáo đề ra những điều kiện lý tưởng cho việc phát triển tâm linh, đó là tám điều tự do và mười điều lợi.

Tám điều tự do là:

1/ không sinhđịa ngục

2/ không sinh vào loài quỷ đói

3/ không sinh vào loài súc sanh

4/ không sinh về cõi trường thọ thiên (ở cõi này không có cơ hội để tu tập)

5/ không có tà kiến

6/ không có hành vi man rợ

7/ không có đoạn kiến

8/ không sinh ra ở nơi không có một vị Thầy giác ngộ nào xuất hiện

Mười điều lợi ích là:

1/ được sinh làm người

2/ có đủ năm giác quan

3/ nghề nghiệp chân chính

4/ sinh ra nơi có Phật Pháp

5/ sinh ra nơi có vị Thầy giác ngộ

6/ vị Thầy dạy giáo lý đạt đến giác ngộ

7/ giáo lý đó vẫn tồn tại

8/ có niềm tin vào giáo lý

9/ tu tập theo giáo lý

10/ có sự hướng dẫn của một vị đạo

Như vậy, rất hiếm khi có đủ tất cả 18 điều kiện lý tưởng nói trên. Trong Phật Giáo những ai có đủ những điều kiện này thì được xem là có đời người quý báu. Nhưng dù có được bao nhiêu điều, chúng ta cũng nên mừng là vì mình đã có những điều đó và tận dụng chúng. Và chúng ta cũng cố gắng để đạt được những điều mà mình đang thiếu. Nếu nhận biết như vậy, chúng ta sẽ không bao giờ dám bỏ phí cơ hội quý báu này, và sớm muộnchúng ta cũng sẽ hiểu đời người quý báuan lạcchứng ngộ chân không.

Nếu không nắm bắt cơ hội này để làm cho cuộc đời của mình có ý nghĩachuyển hóa nó thành đời người quý báu thì chúng ta không thể nói là mình sẽ có một cơ hội khác trong tương lai. Sau cùng, loài ngườitrí khôn sắt bén nhất trong các loài sinh linh mà cũng có những cảm xúc mạnh mẽ nhất, vì vậy chúng ta rất dễ bị cảm xúc lôi cuốn và làm những việc sai lầm có thể đưa tới tái sinh vào những cõi thấp. Luận Sư Shantideva nói: "rất khó được làm người với những điều kiện tốt. Chúng ta đang có cơ hội đạt được mục tiêu cao quý của cuộc đời, nhưng nếu không tận dụng cơ hội này, làm sao có được cơ hội khác ?"

Cuộc đời vô thường

Chết chóc là đề tài tốt nhất để đạt sự tập trung tâm trí. Khi suy ngẫm về sự chết và sự vô thường của cuộc đời, chúng ta dễ cảm thấy mình phải khẩn cấp tận dụng đời người quý báu của mình. Khi liễu triệt ý nghĩa vô thường, chúng ta sẽ biết rõ những tính chất của cuộc đời và do đó sẽ ra sức tu tập.

Chúng ta đều biết là mình sẽ tới lúc chết, nhưng chúng ta không biết trước mình sẽ chết như thế nào. Chúng ta tự nhiên xem cuộc đời của mình là sẽ lâu dài nhưng kỳ thật chúng ta chỉ sống khi nào thần thức còn trụ trong thể xác. Sự kết hợp thần thức và thể xác này rất dễ bị phá hủy bởi nhiều thứ như bệnh tật, tai nạn, thuốc chữa bệnh, thực phẩm, nhà ở, giải trí, bạn bè... tất cả đều có thể trở thành nguy hiểm chết người.

Cuộc đời có vẻ là một sự hiện hữu liên tục, nhưng nó là một chuỗi những thăng trầm trong mỗi lúc. Những giai đoạn sống và chết xen kẽ liên tục giống như ngày và đêm nối tiếp nhau. Trong mỗi lúc, sự biến đổi trong đời sống diễn ra bất tận, giống như chuỗi hạt trong tay chuyền liên tục từ hạt này sang hạt khác vậy.

Tất cả những gì trong đời sống, như thiên nhiên, tình bạn, của cảiđịa vị, đều luôn biến đổi. Đức Phật dạy: " ba cõi dục giới, sắc giới, vô sắc giới, đều vô thường giống như những áng mây mùa thu. Sống và chết quay cuồng giống như một vũ công. Đời người qua nhanh giống như tia chớp trên bầu trời".

Guntheny Tempe Dronme kể rằng có một người đang dạo chơi trên núi bất ngờ rơi xuống sườn núi. Trong khi lăn xuống nửa chừng, người đó nắm được một nắm cỏ, y cố gắng hết sức bám vào những cọng cỏ để không bị rơi xuống vực sâu; Nhưng ở đâu bò tới một con chuột màu trắng gặm nhắm những cọng cỏ; Rồi một con chuột màu đen cũng tới. Hai con chuột thay phiên nhau gặm những cọng cỏ cho tới khi không còn một cọng nào, và người đó đã rơi xuống vực thẳm.

Trong chuyện ngụ ngôn này, con chuột trắng biểu trưng cho ban ngày, con chuột đen tỷ dụ cho ban đêm. Ngày và đêm lần lượt trôi qua đưa chúng ta tới gần hơn với sự chấm dứt một đời người. Chúng ta sống được một cuộc đời, nhưng chúng ta luôn luôn tiến gần tới cái chết. Đức Phật dạy:

" Có tụ thì có tan

Có thăng thì có trầm

Có gặp gỡ thì có phân ly

Có sống thì có chết

đời sống sẽ chấm dứt

Nên chúng sinh đều sẽ chết"

Nhiều người trong chúng ta biết như vậy, ít nhất cũng là ở mức lý trí. Chúng ta cũng biết rằng cái chết thường tới một cách bất ngờ. Nhưng chúng ta cảm thấy dễ chịu hơn khi vùi đầu xuống cát, xem như cuộc đời của mình sẽ kéo dài mãi mãi. Như vậy chúng ta không sửa soạn cho cái chết, để rồi vào phút cuối chúng ta sẽ hối hận và lúc đó đã quá trễ.

Vì vậy chúng ta phải nhận thức tính chất vô thường của cuộc đời, và thực sự cảm nhận tính biến dịch của nó. Sự nhận thức sẽ thúc đẩy chúng ta đi trên con đường an lạc dẫn tới nơi an lạc mà không dám bỏ phí thêm thời gian.

Dùng lý vô thường giải trừ phiền não:

Nhận thức sự vô thường là một điều có ích lợi lớn. Ngoài sự thúc đẩy chúng ta thực hành tu tập, việc quán niệm lý do vô thường còn có thể giải trừ những phiền não và dẫn đến chứng ngộ vô thượng.

Sự vô thường của sân hận: hiểu lý vô thường làm cho chúng ta khoan dung hơn. Khi cảm thấy tức giận một người nào đó làm hại mình, nếu hiểu sự vô thường của sân hận, chúng ta sẽ nhận thức kẻ thù địch hiện tại của mình có thể đã là con cháu của mình trong kiếp trước. Ngày mai, họ có thể là bạn tốt của chúng ta. Ý nghĩa đó sẽ giải trừ phiền não sân hận trong chúng ta. Chúng ta cũng có thể cảm thấy sự vô nghĩa và trống rỗng của việc tranh chấp với người khác, vì chúng sinh liên tục thay đổi. Chúng ta còn có thể cảm thấy từ bi đối với những người được xem là kẻ thù này của mình, vì qua thời gian, ý định làm hại của họ sẽ trở thành nghiệp quả xấu cho chính họ.

Sự vô thường của tham dục: khi tham muốn một người nào hay một vật nào đó, chúng ta phải nghĩ tới tính chất vô thường của những đối tượng đó. Những người trẻ đẹp trở thành già xấu ngay trước mắt chúng ta. Những vật mang lại lạc thú hôm nay sẽ trở thành nguồn đau khổ ngày mai do đã mất đi hoặc đã biến đổi. Của cải vật chấtđịa vị xã hội chỉ làm cho chúng ta trở thành nô lệ của chúng. Bám giữ vào những thứ đó thì cũng giống như tự xiết cổ mình.

Nếu chúng ta theo đuổi những sắc tướng của thế gian tức là mình tự lừa dối mình. Do suy ngẫm về sự vô thường của những đối tượng đang ám ảnh tâm trí của mình, chúng ta sẽ nhận thức được tính chất phù du, không đáng tin cậy của chúng và sẽ dần dần không còn hứng thú gì với chúng nữa. Khi sự ham muốn tàn phai, chúng ta có thể có khả năng mang lại sự thỏa mãn và niềm vui đích thực cho mình cũng như cho bất cứ cái gì mình có. Không tham dục hay bám giữ vào một đối tượng tâm trí nào thì đó là nguồn an lạc lớn nhất. Đức Phật dạy:

"Mọi lạc thú thế gian

Tất cả lạc thúcõi trời

Không thể so sánh với một phần mười sáu

Niềm vui giải thoát khỏi tham dục".

Sự vô thường của ưu phiền: khi tâm trí chùng xuống vì mình vừa mất một vật ưa thích nào đó, chúng ta nên suy ngẫm về sự vô thường của ưu phiềnnguyên nhân gây ra ưu phiền. Sự suy ngẫm này có thể giải trừ mối ưu phiền của chúng ta bằng cách loại bỏ nguyên nhân của nó, vốn là sự chấp thủ của chúng ta vào một cái gì mà thực sự có tính chất không thật và không đáng tin cậy. Có thể chúng ta buồn vì phải đối phó với những gì mình không thích. Khi cảm nhận tính vô thường của chúng, chúng ta sẽ có thể đánh tan được lực ưu phiền.

Sự vô thường của phấn khích: Việc suy ngẫm về lý vô thường có thể giúp chúng ta tránh trạng thái phấn khích. Thí dụ khi biết mình có được một sự may mắn nào đó, thay vì vui mừng, chúng ta nên suy nghĩ rằng tình trạng may mắn này chỉ là phù du. Một cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ trong mấy năm qua về những người trúng số, cho thấy sự kiện trúng nhiều triệu đô la không làm cho những người trúng số hạnh phúc hơn. Sự thật là việc trúng số lại làm cho họ đau khổ nhiều hơn vì sự tranh chấp trong gia đình, thưa kiện nhau, và vì tiêu tiền không khôn ngoan. Một cuộc nghiên cứu khác nhận thấy "các triệu phú bất ngờ này không hạnh phúc hơn những nạn nhân tai nạn giao thông".

Khi qua đời chúng ta chỉ mang theo những chứng ngộ tâm linh mà mình đã đạt được, những thói quen mà mình đã gieo trồng trong tâm trí khi còn sống ở thế gian. Tất cả những sự kiện sướng hay khổ khác đều không đáng kể. Luận sư Shantideva từng viết: " một người thức dậy sau giấc mộng hoan lạc dài một trăm năm, một người khác thức dậy sau giấc mộng đẹp ngắn ngủi. Nhưng khi cả hai thức dậy, những giấc mộng của họ đều không còn. Cũng giống như vậy, vào lúc chết thì kiếp sống trường thọ hay không trường thọ cũng không còn".

Con đường dẫn đến giác ngộ sâu xa: Nếu chúng ta là những hành giả đã đạt chứng nghiệm, thì việc quán niệm lý vô thường có thể dẫn đến trạng thái chứng ngộ sâu xa nhất, vốn là chân lý phổ quát, chân tính giác ngộ. Đại Hành Giả Milarepa viết:

" Vì sợ sự chết

Ta chạy vào trong núi

Thiền quán về sự bất ngờ của cái chết

Ta chứng ngộ trạng thái vô sinh bất tử

Bây giờ ta không còn sợ sự chết nữa".

Nếu nhận thức cái chết là điều không thể tránh được, và tính vô thường của những đối tượng của tâm trí thì tất cả những thói quen xấu trong tâm trí liên quan đến chúng đều được giải trừ. Tâm trí của chúng ta sẽ trở nên rộng mở thay vì chấp thủ, buông xả thay vì bám giữ, an tĩnh thay vì xao động, hòa hợp thay vì tranh chấp, có ý thức thay vì vô tâm, và minh triết thay vì mê lầm. Tất cả đời sống của chúng ta sẽ thay đổi từ tội lỗi tới lành mạnh. Đạo sư Putowa nói:

"Hãy suy ngẫm về sự bất ngờ của cái chết.

Cảm nghĩ về cái chết không thể tránh được sẽ xuất hiện.

Như vậy chúng ta sẽ dễ xả ly mọi nghiệp xấu

Và ra sức tạo nghiệp tốt".

Nếu hiểu rõ tính vô thường của sự vật thì sẽ không có mục tiêu nào là quá cao đối với chúng ta sẽ tiêu tan. Hai phẩm tính của chân tínhtừ bitrí tuệ sẽ tỏa chiếu và soi sáng mọi sự vật.

Vì vậy chúng ta phải biết ơn tính vô thường, vì nhờ có nó mà những đau khổ của cuộc đời sẽ chấm dứt nếu chúng ta tinh tấn tu tập, và khi đó sự gia hộ sẽ có thể chuyển hóa kiếp người của chúng ta thành đời sống quý báu.

Đời sống được quy định bởi luật nhân quả:

Một trong những động lực mạnh nhất của việc tu tập là biết rằng mình sẽ nhận được nghiệp quả của tất cả những nghiệp thân, khẩu, ý mà mình đã tạo ra. Đây là luật nhân quả.

Ý niệm luật nhân quả đã trở nên phổ biếnTây Phương, nhưng vẫn có nhiều người nghĩ rằng nhân quả có nghĩa là số mạng hay một loại trừng phạt nào đó mà người ta phải đương nhiên chấp nhận. Có khi người ta than thở khi gặp chuyện không may: " có lẽ đây là nghiệp quả của mình".

 

Nghĩ như vậy là sai lầm, vì trước hết nhân quả không chỉ có nghĩa là xấu, mà muốn nói tới tất cả những hành động cố ý, xấu cũng như tốt, gây ra đau khổ cũng như hạnh phúc.

Thứ hai, nhân quả, nghiệp báo hay karma, không phải là số mạng hay định mệnh, cũng không phải là sự trừng phạt do một nhân tố bên ngoài nào đó áp đặt lên chúng ta. Chúng ta đã tạo nghiệp quả cho chính mình. Nghiệp quả là hệ quả của những hành động tự ý mà chúng ta làm trong mỗi khoảnh khắc mỗi ngày. Đại Sư Walpola Rahula viết " nhân quảlý thuyết về nguyên nhân và kết quả, về hành động và phản ứng. Nhân quả là luật tự nhiên, khác với ý tưởng về công lý hay thưởng và phạt. Mọi hành động cố ý đều để lại hậu quả do chính mình gây tạo". Quả báo là những gì chúng ta đã gieo trồng trong giòng tâm trí với những hành động và những phản ứng của chính mình.

Nếu cho rằng mình phải ngồi đợi kết quả của những hành động quá khứ xuất hiện với mình thì đó là một ý tưởng sai lầm. Tạo những thiện nghiệp về thân, khẩu, ý ngay bây giờ, những thiện nghiệp do chúng ta tạo ra có thể giải trừ những nghiệp quả xấu của mình đã gieo trồng trong quá khứ, và định hình lại tương lai của mình. Nhưng nếu dung dưỡng những ác nghiệp của mình, chúng ta có thể hủy diệt hay giảm thiểu những thiện nghiệp mà mình đã tạo ra trong quá khứ. Chính chúng ta tạo ra vận mạng tốt hay xấu của chính mình.

Khi chết, chúng ta chỉ có thể mang theo những nghiệp quả của mình. Tất cả những gì mà chúng ta đã hưởng thụ trong kiếp này đều phải bỏ lại phía sau. Đức Phật dạy:

“Một vị vua rồi cũng đến lúc chết

Của cải, thân nhân, và bạn bè đều không thể đi theo Ngài

Người ta dù đi đâu, dù ở đâu

Nghiệp quả cũng đi theo họ như bóng theo hình".

Nghiệp quả là nhân tố độc nhất quy định sự tái sanh của chúng ta, vì kiếp sau chính là hiệu ứng của những khuynh hướng nghiệp xuất hiện trong tâm thức của chúng ta. Đức Phật dạy:

" Do thiện nghiệp mà có hạnh phúc

ác nghiệp mà chịu khổ đau

Vậy an lạc hay đau khổ đều do nghiệp quả

Từ những thiện nghiệpác nghiệp của mình".

Nếu hiểu và tin luật nhân quả, chúng ta cố gắng tạo những thiện nghiệp để có hạnh phúc trong những kiếp sau. Vì ý định đi trước hành vi của thân và miệng, nên chúng ta hãy tu sửa thái độ tâm ý của mình đến chỗ an lạc. Chúng ta hãy chấm dứt những ý nghĩ xấu trước khi chúng trở nên quá tệ hại. Nếu thực sự tin vào luật nhân quả, chúng ta sẽ không dám dung dưỡng bất cứ một điều gì xấu, vì không muốn tự làm hại mình với những nghiệp quả xấu. Nếu vẫn có hành vi xấu thì đó là vì chúng ta, chưa hiểu và chưa tin luật nhân quả.

Việc cải thiện hành vi của mình cũng mang lại cho chúng ta cơ hội cải tạo thế giới vốn liên quan chặt chẽ với chúng ta. Nghiệp quả của chúng ta không chỉ liên quan đến bản thân mà còn có nghiệp tập thể (cộng nghiệp) cũng như nghiệp cá nhân (biệt nghiệp). Nghiệp cá nhân quy định con ngườiđời sống của cá nhân. Nghiệp tập thể là nghiệp quảchúng ta chia sẻ với những người có một sự liên quan nào đó với mình. Càng thân cận với người khác, chúng ta càng chia sẻ nhiều quả với họ. Nghiệp tập thể là lý do nhiều người chia sẻ đời sốngý tưởng giống nhau. Vậy, do tạo thiện nghiệp, chúng ta có thể giúp cải thiện nghiệp báo chung của mọi người. Càng tinh tấn tu tập, chúng ta càng đóng góp nhiều lợi ích cho công việc tạo nghiệp cộng đồng tốt này.

Do vậy, vì mình và vì mọi người, chúng ta hãy cố gắng tìm hiểu một cách chi tiết về luật nhân quảnghiệp báo.

Gốc rễ của nghiệp là ngã chấp:

Nghiệp (Karma) là hành động cố ý phát sanh từ ý định của mình. Như vậy tâm có vai trò chính yếu trong việc tạo nghiệp và có năng lực tạo ra kết quả của nghiệp.

Trước khi chúng ta đạt được tâm giác ngộ thì nghiệp là một sự kiện của đời sống. Chúng ta tạo nghiệp khi xem những vật đối tượng của tâm là những thực thể có sự hiện hữu thực sự. Việc xem một đối tượng là một thực thể có thật phân cách với tâm mình thì được gọi là thấy nó với tự tánh của nó. Như đã nói lối cảm nhận này được gọi là “ngã chấp”, tức là bám giữ vào cái ta hay tự tánh. Trước hết chúng ta bám giữ vào tự tánh của thể xác và tâm trí của mình và gọi nó là "ta", và rồi chúng ta tự chấp thủ tự tánh của những người và vật khác, và gọi những đối tượng đó là "người này", "người kia", "vật này", "vật kia"....

Khi chúng ta thấy năm uẩn (skandha) sắc, thọ, tưởng, hành, thức tạo nên thân xác và tâm trí ta, và xem chúng là "ta" hay "mình", thì như vậy được gọi là bám giữ vào tự ngã, hay ngã chấp (vị kỷ). Khi xem những đối tượng như thể xác, tình cảm, cảm giác và những hiện tượng khác là có thật, nên được gọi là chấp thủ các hiện tượng hay pháp chấp. Chấp thủ tự tánh hay ngã chấppháp chấp là gốc rễ của sự tạo nghiệp.

Mọi vật xuất hiện trong đời sống là kết quả của những nghiệp do tâm cảm nhận và tương tác với những đối tượng của nó, thí dụ như những ý niệm của xúc, cảm giác, (những tâm phápsắc pháp) và tất cả những hiện tượng xuất hiện trong tâm thức của chúng ta. Những đối tượng vật chấtchúng ta cảm nhận được không nhất thiết do nghiệp cá nhân của chúng ta gây ra. Tuy nhiên do nghiệp của chúng ta mà những đối tượng này trở thành nguồn gốc của những nghiệp quả tốt hay xấu trong đời sống.

Nghiệp được tạo như thế nào ?

Nghiệp được tạo khi tâm chấp thủ của chúng ta phát sanh một tâm tham ái đối với đối tượng được chấp thủ hoặc phát sanh một sự sân hận. Cả sự ưa thích lẫn sự không ưa thích, làm cho tâm chấp thủ mạnh hơn, và do đó đưa đến tham, sân, si, tức là ba cảm xúc phiền não hay ba điều độc hại. Như vậy chúng ta tạo nghiệp qua ba "cửa" thân, khẩu, ý (hành động cụ thể, lời nóiý nghĩ). Sự tạo nghiệp từ cảm nhận tâm trí này là nguyên nhân của mọi điều xấu về thân, tâm cũng như xã hội của chúng ta. Đạo Sư Gampopa nói "nguồn gốc của mọi tội lỗi và mọi nghiệp quả đau khổ là do ngã chấp mà ra". A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận của Luận Sư Thế Thân cũng nói: " Ý định là nghiệp của tâm. Thân nghiệpkhẩu nghiệp là những nghiệp do ý nghiệp tác thành".

Chúng ta không thể không tạo nghiệp, nhưng chúng ta có thể chọn nghiệp tốt để tạo hầu gặt hái những kết quả tốt, hoặc tạo nghiệp xấu để rồi nhận lãnh hậu quả khổ đau. Kinh sách Phật Giáo chỉ dẫn 10 thiện nghiệp và 10 ác nghiệp về thân, khẩu, ý như sau:

Ba nghiệp ác của thân: (1) sát sanh, (2) trộm cắp, (3) tà tâm. Bốn nghiệp ác của miệng là: (4) nói dối, (5) nói lời chia rẽ, (6) nói lời độc ác, (7) nói lời vô nghĩa. Ba nghiệp ác của ý là: (8) tham muốn, (9) sân hận và (10) tà kiến.

Mười nghiệp thiện là trái ngược lại với 10 ác nghiệp vừa kể trên. Ba thiện nghiệp về thân: (1) bảo vệ mạng sống của sinh linh khác, (2) bố thí, (3) không tà tâm. Bốn thiện nghiệp của miệng là: (4) nói lời thành thật, (5) nói lời hòa giải, (6) nói lời ái ngữ, (7) nói lời có ý nghĩa. Ba thiện nghiệp của ý là: (8) khoan dung, (9) từ bi và (10) chánh kiến.

Nhân tố quan trọng độc nhất quyết định tạo thiện nghiệp hay ác nghiệpđộng lực hay ý định của người tạo nghiệp. Đại Sư Tsongkhapa nói: "giống như nam châm hút sắc, ý định làm cho tâm chịu sự thu hút của ý nghĩ tốt, xấu hay trung tính". Nếu ý định của chúng ta chịu ảnh hưởng của ba độc tham, sân, si thì dù hành động, nói năng hay suy nghĩ gì thì chúng ta cũng sẽ gây ác nghiệp. Luận Sư Long Thọ nói: "những hành động được tạo tác bởi tham, sân, si đều là ác nghiệp, chính ác nghiệp này sẽ mang lại đau khổ cho ta và sẽ dẫn ta đầu thai vào cõi thấp".

Tuy nhiên nếu chúng ta có những động lực từ bi, khoan dungtrí tuệ thì mọi hành động, lời nói, ý nghĩ của chúng ta đều là thiện nghiệp. Luận Sư Long Thọ nói: " những nghiệp được tạo không phát xuất từ tham, sân, si là thiện nghiệp, chính thiện nghiệp này sẽ mang lại hạnh phúc cho ta và sẽ dẫn ta tái sanh vào cõi lành trong những kiếp sau".

Nếu ý định của chúng ta pha trộn tốt xấu thì nghiệp cũng pha trộn tốt xấu. Nếu ý địnhtrung tính thì chúng ta cũng tạo nghiệp trung tính, sản sanh nghiệp quả không tốt cũng không xấu và tái sanh vào cõi không cao không thấp.

Đôi khi chúng ta thấy người tốt chịu sự khổ đau và người xấu lại sung sướng. Tại sao vậy? câu trả lời là vì nghiệp quả của hai người này chưa chín muồi. Mỗi người chúng ta đã tạo vô số nghiệp trong vô số kiếp quá khứ. Mỗi hành động của chúng ta được ghi nhận trong hàm tàng thức (alayavijnana, A Lại Da Thức, thức chứa đựng tất cả những kinh nghiệm đời sống con người). Hàm tàng thứctrạng thái tâm trung tính, không chủ động, vô thức, và là nền móng của kinh nghiệm đời sống luân hồi. Tất cả những hành động được ghi nhận trong hàm tàng thức trở thành lực tác động và sẽ sinh ra nghiệp quả trong những kiếp tương lai của chúng ta. Những nghiệp quả này là sự chín muồi của những chủng tử nghiệpchúng ta đã gieo trồng trong hàm tàng thức, và có thể là quả ngọt, quả đắng hay trung tính. Đức Phật dạy: " tâm thức giống như biển cả, nghiệp giống như những đợt sóng".

Như vậy người xấu được thọ hưởng sự thành công bây giờ là đang hưởng kết quả của những nghiệp tốt quá khứ nào đó, còn người tốt phải chịu đau khổ là đang nhận lãnh những hậu quả của những ác nghiệp mà họ đã tạo tác trong quá khứ. Khi những nghiệp quả tốt và xấu này chấm dứt thì những nghiệp quả tốt và xấu khác sẽ xuất hiện với những người tốt và những người xấu đó.

Những nghiệp quả chín muồi theo thứ tự nào? Theo quy luật tổng quát thì những nghiệp nghiêm trọng và mạnh nhất sẽ chín muồi trước. Kế tiếp cận tử nghiệp, tức là những nghiệp mà chúng ta tạo vào lúc sắp lìa đời. Loại nghiệp chín muồi thứ ba là những nghiệp mà chúng ta đã dùng nhiều thời gian nhất để tạo và quen thuộc nhất. Và rồi, nghiệp quả sẽ xuất hiện theo thứ tự thời gian, bắt đầu với những nghiệp mà chúng ta đã tạo trước. Như vậy chúng ta sẽ nhận lãnh một số nghiệp quả trong kiếp này và một số nghiệp quả khác trong những kiếp sau.

Chúng tavô số chủng tử nghiệp nhưng chúng ta không biết đến sự hiện hữu của chúng, và phần lớn chúng tiềm ẩn hoặc chưa chín muồi. Khi một chủng tử nghiệp chín muồi thì chúng ta sẽ thọ lãnh nghiệp báo của mình. Trong kinh sách Phật Giáotỷ dụ một một người bị một con chuột độc cắn, nếu người đó bị cắn vào mùa đông thì chất độc chưa có hiệu lực. Nhưng đến mùa xuân, khi người đó nghe thấy tiếng sấm báo hiệu sang mùa thì chất độc sẽ phát tác, nếu người đó không dùng thuốc giải độc. Như vậy, đúng thời đúng lúc, nếu chúng ta không làm gì để hóa giải, nghiệp quả chín muồi của chúng ta sẽ báo ứng. Đức Phật từng dạy: "Nghiệp của người thế gian một khi đã tạo tác, không bao giờ tan mất dù có trải qua một trăm đại kiếp, đến khi đúng thời đúng đúng lúc, nghiệp ấy sẽ trổ quả".

Nếu biết ngừng lại và tịnh hóa những ác nghiệp, chúng ta sẽ có thể biến đổi, giảm bớt, hay giải trừ chúng hoàn toàn. Một thiện nghiệp mạnh mẽ có thể xóa bỏ nhiều ác nghiệp. Với động lực càng mạnh, càng thanh tịnh, thiện nghiệp của tất cả chúng ta càng có nhiều oai lực. Chúng ta không nên xem thường những nghiệp do ý sinh ra. Đức Phật cũng dạy: " Làm một việc tốt nhỏ, đời sau sẽ hưởng phúc lạc lớn, thành tựu những ý định lớn, cũng giống như những hạt giống tốt sẽ giúp dẫn đến vụ gặt được mùa".

Điều ngược lại cũng vậy, một ác nghiệp lớn có thể làm suy yếu hay tiêu tan những thiện nghiệp.

Động lực là quan trọng nhất, nhưng sức mạnh của một nghiệp nào đó cũng tùy thuộc vào việc nó có được tạo tác qua bốn giai đoạn sau đây hay không. Ví dụ một hành động bố thí. Trước hết chúng ta cần phải có một cái gì để bố thí, tức là một vật bố thí. Sau đó chúng ta cần có động lực vốn là nhân tố hoàn toàn quan trọng. Thứ ba là sự thực thi hạnh bố thí. Khi vật bố thí được nhận thì khi đó việc bố thí mới hoàn thành. Một hành động hội đủ bốn giai đoạn này là một nghiệp được tạo tác trọn vẹn và sẽ mang lại nghiệp quả cho người tạo nghiệp.

Chuỗi nhân duyên của nghiệp là vô hạn. Một nghiệp nhân có thể sản sinh nhiều quả báo. Một nghiệp nhân có thể sản sinh của nhiều nhân duyên khác nhau. Khi nhận một quả báo, chúng ta gieo trồng nhiều nhân duyên mới. Mỗi phương diện và mỗi khoảnh khắc của đời sống được sản sinh và duy trì bởi một mạng lưới những nhân duyên, nghĩa là tất cả mọi vật đều được nối kết, sản sinh và hoạt động tùy thuộc lẫn nhau.

Vượt qua nhân duyên:

Nghiệp nhânsự thật của đời sống, nhưng mục tiêu tối hậu của chúng ta là vượt lên trên sự tạo nghiệp. Điều này sẽ xảy ra khi chúng ta đạt đến trạng thái giác ngộ trọn vẹn và không còn ngã chấp nữa. Khi đã thoát khỏi nhân duyên gây ra nghiệp, chúng ta được tự do giúp đỡ chúng sanh theo vô số phương tiện, vì chúng ta đã có tính toàn giác để biết đúng nhu cầu của mỗi sinh linh và có quyền năng hiển lộ trong bất cứ hình dạng và âm thanh nào mang đến lợi ích cho chúng sanh.

Để vượt lên trên sự tạo nghiệp, chúng ta trước hết chỉ tạo thiện nghiệp. Càng tạo nhiều thiện nghiệp, chúng ta càng gặt hái nhiều quả an lạc và do đó càng tạo nhiều phúc lạc lớn hơn. Như vậy dần dần chúng ta buông bỏ ngã chấp. Cuối cùng chúng ta sẽ chứng nghiệm một chút chân tánh quang minh của mình. Khi không còn ngã chấp nữa, chúng ta sẽ đạt đến giác ngộ trọn vẹn. Con đường tạo tác thiện nghiệp sẽ đưa chúng ta trở về sự an lạc tối thượng vốn có ở trong mọi người và ở trong mọi thời gian.

Cuộc đời là ảo mộng?

Có những giáo lý nói rằng cuộc đờiảo mộng và những giáo lý khác nói rằng cuộc đời do nghiệp tạo ra. Đối với các bậc Thầy giác ngộ đã thoát khỏi sự kiểm soát của luật nhân quả thì thế gian này là ảo mộng và không có cái gì chắc thật cả. Các vị không còn tham dục hoặc sân hận, vì mọi sự vật đều được xem là ảo giác.

Đối với đa số chúng ta thì sự vật thế gian đều có vẻ chắc thật. Khi còn hoạt động qua nhân duyên, chúng ta còn phải làm theo luật nhân quả. Vì nghiệp lực của chúng ta, các hiện tượng có vẻ có sự hiện hữu thực sự và liên tục. Nhưng kỳ thật thì chúng ta đang ngủ với một giấc mộng và chưa thức tỉnh.

Giáo lý Phật Giáo dạy rằng thế gian là do tâm tạo. Nhưng có thể chúng ta thắc mắc làm sao tâm của mình có thể tạo ra quả núi lớn đang đứng trước mắt mình? không ai nói rằng tâm tạo ra quả núi, mà là tâm tạo ra ý niệm quả núi. Dù có quả núi hay không, nếu không có tâm thì những ý tưởng, từ ngữ, hay ý nghĩ quả núi có thật hay không có thật sẽ không xuất hiện. Trong Bách Nghiệp Kinh (Karmashataka Sutra) Phật dạy: "Những nghiệp khác nhau, tạo ra những cõi giới khác nhau".

Trong Đại Bi Kinh (Mahakarunapundararika Sutra) Đức Phật dạy: " Nghiệp sản sinh và làm hiển lộ thế gian, nghiệp tạo ra chúng sanh, nghiệp sinh ra chúng, nghiệp có thể hóa chúng".

A Tỳ Đạt Ma Câu Xa Luận (Abhidharmakosa) cũng ghi: "Nghiệp sinh ra mọi hiện tượng trong thế gian".

Người ta có thể hỏi, nếu cuộc đờiảo mộng thì tại sao chúng ta lại ra sức cải thiện đời sống của mình làm gì? đời sống của chúng ta được dựa trên những phản ứng và những phản chiếu của thói quen tâm trí của chúng ta, vốn thực sự không có thật. Nhưng chúng ta phải cố gắng cải thiện đời sống ảo mộng của mình, nếu không chúng ta sẽ tiếp tục đau khổ vì những sự vật huyền ảo. Vì không nhận ra chúng là ảo ảnh nên chúng ta chịu đau khổ cứ như là chúng có thật.

Cần phải thấu hiểu nghiệp báo:

Khi thực sự hiểu rõ thế nào là nghiệp, chúng ta sẽ không cố ý tạo những ác nghiệp, dù nhỏ nhất. Dù những ý nghĩ xấu chưa xuất hiện, chúng ta cũng bắt đầu thanh lọc tâm ta ngay từ bây giờ.

Trong tu viện của tôi ở Tây Tạng, và trước thời của tôi, có một vị đại sư tài năng tên là Khenpo Damcho, khi còn nhỏ Ngài khó nhớ những gì mà mình đã học. Một hôm, Thầy của Ngài ngồi ngay trước mặt Ngài và bảo Ngài lập lại một trăm lần một câu trong một bài học, và hai Thầy trò luân phiên xướng lên câu đó. Sau đó Thầy của Ngài bảo Ngài nói câu đó một mình, nhưng Ngài cũng không nhớ nổi để có thể lập lại. Thấy vậy Thầy của Ngài cho Ngài niệm một câu Thần chú ngắn của Phật Tịnh Hóa (Buddha of Purification) một ngàn lần. Ngay sau khi niệm xong, trí nhớ của Ngài hoàn toàn thay đổi, và việc học của Ngài bắt đầu tiến triển mạnh. Ngài trở thành một trong những học giả sáng chói nhất trong thời đại của mình. Tại sao? vì việc niệm câu thần chú đã tạo thiện nghiệp giải trừ những ác nghiệp gây chướng ngại cho tâm trí của Ngài.

Chúng ta cũng có thể sửa đổi nghiệp của mình với sự tinh tấn. Điều then chốt là luyện cho tâm ta xa lánh ác nghiệp và tạo thiện nghiệp cho đến khi trở nên hoàn thiện, thoát khỏi lưới nghiệp huyễn ảo. Một khi được nếm thành quả nỗ lực của mình, niềm tin vào nghiệp báo và việc hành trì tu tập của chúng ta sẽ gia tăng và được thiết lập vững chắc trong tâm ta.

Cuộc đời đầy khổ đau:

Tất cả chúng ta đều muốn có hạnh phúc, nhưng khi còn kẹt trong vòng luân hồi với những hoạt động thế gian, chúng ta sẽ không thể tìm thấy hạnh phúc, vì thế gian này thực sự không đáng thoả mãn và đầy khổ đau. Chúng ta phải hết sức vận dụng trí tuệ để hiểu thấu điều này.

Nhiều người cho Phật Giáobi quan vì nói rằng đời là khổ. Nhưng học giả nổi tiếng thế giới, Hòa Thượng Tiến Sĩ Walpola Rahula từng viết: " Phật Giáo không bi quan, không lạc quan mà chỉ nói lên sự thật. Phật Giáo nhìn sự vật một cách khách quan".

Khi thực sự thấy sự vô ích của việc tìm hạnh phúc trong thế gian huyền ảo, chúng ta sẽ không tham muốn nữa, mà sẽ đi theo con đường diệt khổ, đắc Niết Bàn an lạc. Đây là sự minh triết của đạo phápquả vị.

Chúng ta cần phải đối diện với đau khổ thế gian vì một lý do khác. Nếu muốn đắc đạo, chúng ta cần phải bắt đầu ngay ở đây chứ không phải ở một nơi nào khác trong dự định. Đó là lý do mà bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Thế Tôn nói về Khổ Đế (truth of suffering), một trong bốn chân lý vi diệu, vốn là giáo lý trung ương của Ngài. Và đó là lý dochúng ta cũng nên tìm hiểu đời sống một cách khách quan. Nếu cuộc đời của chúng ta phần lớn đã chìm đắm trong mê lầmđau khổ thì chúng ta nên nhìn nhận như vậy và biết rằng đó là nơi khởi hành để mình tiến tới trên đường đạo.

Đau khổ: chân lý thứ nhất

Chúng ta hãy xét thêm tính chất của sự đau khổ mà mình đang phải chịu. Chúng ta đều quen thuộc với sự đau khổ mà mình trông thấy ở xung quanh, ví dụ như: u uất, đau buồn, than thở và bệnh tật... Sự đau khổ phổ quát này được Phật Giáo gọi là " khổ khổ" (suffering of suffering).

Nếu nhìn kỹ hơn, chúng ta sẽ thấy một loại khổ đau khác nhuộm màu tất cả những niềm vui và những sự hài lòng của mình. Chúng ta lo ngại tất cả những điều tốt đẹp sẽ phải chấm dứt hay biến đổi theo đúng quy luật tự nhiên. Con cháu chúng ta sẽ trưởng thànhxa cách, những người thân yêu rồi sẽ chết, chúng ta sẽ trở nên già yếu. Những điều tốt không chỉ chấm dứt mà còn có thể biến thành nguồn đau khổ. Việc kinh doanh có thể làm cho chúng ta thê thảmphá sản. Thuốc lá gây ung thư phổi. Loại khổ đau này được gọi là "hoại khổ", khổ do biến đổi.

Ở mức sâu hơn là "hành khổ", khổ có ở khắp nơi. Sự đau khổ này có ở ngay trong năm uẩn, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, vốn tạo nên thân thểtâm thức con người, và ở trong đó không có gì thực sự đáng hài lòng. Đức Phật nói : "Tất cả các pháp hữu vi đều biến dịch và hư hoại" (all compounded things are subject to change and decay). Pháp hữu vi là những hiện tượng phát sinh từ nhân duyên. Chúng được tạo ra bởi những nguyên nhân của đau khổ, những ác nghiệp của những ý niệm nhị nguyênphiền não, với những điều kiện mang lại đau khổ. Vậy, phải sinh ra là khổ.

Có thể nói hành khổ dẫy đầy thế gian này đến mức chúng ta trở nên vô cảm với nó. Lý do một phần chúng ta không nhận thức được nó là vì chúng ta đã không biết gì về một cõi sống nào khác và như vậy không có gì để so sánh với đời sống thế gian của mình.

Vậy chúng ta hãy xét tình trạng sống của mình từ quan điểm của các vị Thần. Trong cuốn "Hành Trình Giác Ngộ" (Enlightened Journey) của tôi, tôi đã trình bày những hình ảnh đơn giản sau đây: Hãy tưởng tượng chúng ta có "thân ánh sáng" giống như cầu vòng và giống như thân của những sinh linhcõi trời. Đó là thân ánh sáng phi vật chất nên chúng ta có thể di chuyển bằng cách bay trên không. Không có bóng tối xung quanh chúng ta, chúng ta không cần phải có ánh sáng mặt trời hay mặt trăng, vì thân ánh sáng của chúng ta chiếu sáng khắp vùng xung quanh. Không có sự đau nhức nào vì thân của chúng ta là vô vật chấtbất hoại. Chúng ta sống với thân này trong nhiều năm. Rồi một hôm thân ánh sáng này bỗng biến đổi thành thân có thịt, xương, da, máu và đủ loại chất bẩn. Chúng ta chỉ có thể di chuyển bằng hai chân bước từng bước một. Chúng ta không thể trông thấy gì nếu không có nguồn ánh sáng khác. Thân thể của chúng ta dễ bị xâm phạm bởi những vật khác, dễ gẫy, đứt hay bị cắt thành từng mảnh, không thể lành lặn trở lại hay đi đứng trở lại nếu chúng ta không cẩn thận trông chừng, tránh né và luồn lách mọi vật chung quanh bất cứ lúc nào. Đây phải là một loại khổ không thể nào chịu đựng nổi.

Tất nhiên, sự hoan lạc của các vị Thần không thể so sánh được với sự an lạc của cõi vô thượng. Vì cũng sống trong cõi luân hồi nên các vị Thần chắc chắn phải có sự đau khổ. Khi nghiệp quả tốt của họ chấm dứt, họ sẽ chết trong sự lo sợ kinh khủngcảm thấy tương lai đau đớn đang chờ đợi mình trong kiếp sau ở một trong những cõi thấp.

Chúng ta nên nhớ lời Phật dạy rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Tính giác ngộ này là mục tiêu để chứng ngộ bằng những pháp tu tập khác nhau như thiền quán. Nhưng đối với đa số chúng ta thì Phật tánh bị che phủ bởi gió nghiệp vốn có gốc rễ là tâm ngã chấp, và bởi những cảm xúc phiền não. Vì vậy chúng ta trở nên vô minhđau khổ và phải lang thang mãi trong sáu cõi luân hồi, giống như cái bàn xoay của người thợ làm đồ gốm quay vòng vòng. Đức Phật dạy: " Do vô minh tham muốnbiến dịch, trong các cõi của người, trời và ba cõi thấp; năm cõi sinh linh quay cuồng giống như cái bàn xoay của người thợ gốm".

Giống như một con ong bay quanh trong căn phòng đóng kín, chúng ta liên tiếp tái sinh trong các cõi luân hồi tùy theo nghiệp báo của mình.

1/ Nếu tâm ta đầy sân hận và đã làm hại người khác thì vào lúc chết, thần thức của chúng ta sẽ xuất hiện trong hình dạng kiếp tái sinh trong địa ngục. Những đặc tính của địa ngục như nóng cháy, hoặc lạnh như băng, đau đớn hoặc buồn thảm, áp chế, hung dữ, sẽ là đời sống của chúng ta.

2/ Nếu ta keo kiệt bỏn xẻn, sau khi chết chúng ta sẽ thấy mình tái sinh trong cảnh khốn khổ, bị hành hạ, đói khátthiếu thốn, vốn là những đặc điểm của cõi quỷ đói.

3/ Nếu tâm ta và những hành động ta đầy vô minhmê muội, chúng ta sẽ thấy mình tái sinh vào cõi súc sinh, thú vật, chịu sự mê muội, hành hạ, phải kéo cày hay chuyên chở vật nặng, và bị giết để lấy thịt.

4/ Nếu có tâm ganh tỵ, chúng ta sẽ thấy mình tái sinh trong loài bán thần Atula, hiếu chiến, và do lo sợ, ganh tị chúng ta sẽ rơi vào những cuộc xung độtâm mưu bất tận.

5/ Nếu ta có ý nghĩhành vi kiêu ngạo, sau khi chết thần thức ta sẽ xuất hiện như những vị Thần ở cõi trời, nơi chúng ta sẽ phí thời giờ với những thú vui cho đến khi chết và rơi xuống những cõi thấp.

6/ Nếu tâm ta và hành động có tính tham dụcchấp thủ, chúng ta sẽ tái sinh trở lại làm người.

cõi người có nhiều cơ hội để tu tập và phát triển tâm linh, nhưng dù tái sinh làm người, chúng ta vẫn có thể đi lạc ra ngoài đường đạo và tái sinh trong cõi thấp. Có thể chúng ta mắc phải tính ganh tị và sân hận để rồi tạo nghiệp xấu. Kiếp người cũng đầy khó khăn tới mức không có gì bảo đảm cho chúng ta sẽ có sức mạnh để tu tập.

Phải xét những khó khăn mà chúng ta đối diện từ lúc sinh ra cho đến lúc chết. Trước hết chúng ta phải trải qua sự ra đời và tuổi ấu thơ. Rồi nếu may mắn, chúng ta sẽ sống khoảng hai mươi năm kế tiếp với trường học. Sau đó chúng ta xây dựng gia đình và dành phần lớn thời gian cho việc kiếm sống. Cuối cùngtuổi già, sức yếu. Đủ các thứ bệnh tật làm cho chúng ta phải lo nghĩ, đau đớn và trông mong. Chúng tathể không còn tiền bạc và của cải nữa. Cái chết sẽ chực chờ chúng ta ở ngoài cửa và kiếp sống của chúng ta sẽ chấm dứt. Thân người của chúng ta sẽ tan rã thành cát bụi và tên tuổi của chúng ta biến mất khỏi ký ức của thế gian. Chỉ có tâm thức của chúng ta chuyển di qua các cõi luân hồi, trừ khi chúng ta đạt đến giải thoát hay tái sinh trong một cõi tịnh độ, nơi chúng ta sẽ không bao giờ thoái hóa về mặt tâm linh và sẽ chứng đạt giải thoát trọn vẹn.

Ngoài những khó khăn này, con người còn phải chịu bốn nổi khổ trong suốt kiếp sống: khổ vì phải nhận những gì mà mình không muốn, khổ vì mất những gì mình thích, khổ vì không có được những gì mình muốn có, và khổ vì phải gặp những gì mình ghét. Cách độc nhất để thoát khỏi những nổi khổ này là làm ba điều sau đây:

- Nhận ra những tính chất xấu, cảm xúc xấu và hành vi xấu của mình.

- Chuyển hóa từ xấu sang tốt.

- Phát triển từ tốt đến hoàn thiện.

Tham vọng cũng có thể là một tính tốt. Tây Phương đặc biệt đề cao tâm lý "mình có thể làm được", nhưng chúng ta cần phải biết dùng tham vọng một cách khôn ngoan. Nếu chạy đua marathon mà lại muốn tới đích ngay thì không thể thắng cuộc đua nếu không đi qua hơn bốn mươi hai cây số. Vậy khi nhắm vào phần thưởng cao nhất tức Phật quả, chúng ta cần phải đi từ bước đầu tiên, đó là biết mình đang ở vị trí nào. Chúng ta cần nhận ra rằng cuộc đời của mình có nhiều điều xấu và nhiều đau khổ. Rồi chúng ta phải có ý muốn khẩn cấp tự giải thoát khỏi tù ngục do chính mình tạo ra. Chúng ta cần phải chuyển hóa từ xấu đến tốt bằng cách gây dựng những đức tính an lạc, từ bichánh kiến. Sau cùng, chúng ta phải đạt đến sự hoàn thiệnthoát khỏi sự trói buộc của tâm lý sợ đau khổ và muốn hạnh phúc bằng cách tự giải thoát khỏi gốc rễ của đau khổ.

Phật Giáo có một cách tự giải thoát khỏi gốc rễ của đau khổ qua việc tu tập từng bước một cho đến khi đạt đến trạng thái giác ngộ trọn vẹn. Như vậy Phật Giáo chủ trương rộng mở, một quan điểm không có hai biên kiến bi quanlạc quan. Luận Sư Long Thọ nói:" Đối với người chứng ngộ tánh Không, thì tất cả đều khả hữu".

Tiềm năng lớn của đời người:

Nhiều người có bản tánh hiền hòa, vui vẻ và khôn ngoan. Chỉ riêng sự hiện diện của họ cũng có thể mang lại niềm an lạc cho mọi người chung quanh. Tất cả chúng ta đều có thể đánh thức những phẩm tánh như vậy trong tâm mình, miễn là chúng taý địnhcố gắng đạt được điều này. Mỗi người chúng ta đều có chân tánh giác ngộ. Những phẩm tánh đích thực của chúng taan lạctrí tuệ. Những cảm xúc xấu và những lời nói không lành mạnh là những phiền não, một loại ô nhiễm, chứ không phải tính chất đích thực của chúng ta.

Đó là lý do Phật Giáo dạy rằng đời người rất quý báu, chúng ta có thể dùng sự vô thường để phát triển đời sống của mình, chúng ta có thể dùng luật nhân quả để có sự chết an lạctái sinh hoan hỷ, và tất cả chúng ta đều có thể đạt đến giác ngộ viên mãn, vì đây chính là chứng ngộ chân tánh của chính mình. Chúng tathể đạt đến an lạctrí tuệ không chỉ cho đời này mà còn cho những kiếp sau, và không chỉ cho riêng mình mà còn cho vô số người khác.

Nếu chúng ta gây dựng tâm an lạc, có chánh kiếncủng cố những thói quen tốt này trong tâm trí thì tâm an lạc này sẽ chuyển hóa đời sốngtâm tánh của chúng ta. Những tình trạng không may mắn sẽ ít ảnh hưởng tới chúng ta, và sức mạnh an lạc sẽ thắng thế. Nhưng nếu không lợi dụng cuộc đời của mình ngay bây giờ thì trong tương lai chúng ta sẽ rơi vào sự mê muội, lo sợ và đau đớn.

Để đạt mục tiêu này, chúng ta phải đi theo con đường đạo. Đường đạo có thể là bất cứ con đường nào dẫn đến tâm an lạc, giải trừ tính chấp thủ, thanh lọc cảm xúc phiền não, cải thiện lời nóihành vi của chúng ta. Đây là cách độc nhất để chuyển tính xấu thành thiện nghiệp, tạo công đứcchứng ngộ trí tuệ.

Đường đạo của chúng ta có thể có một vài hay tất cả những pháp thực hành sau đây:

- Thiền quán hơi thởtheo dõi hơi thở trong từng khoảnh khắc để làm cho tâm trí an tĩnhđánh thức trí tuệ.

- Gây dựng ý nghĩ và tình cảm từ bi đối với người khác và thực hành tâm từ bi bằng cách phục vụ nhu cầu của người khác một cách vô vị kỷ.

- Tôn thờ một sự hiện diện thiêng liêng mở tâm trí chúng ta một cách vô hạn, giải trừ mọi phiền não của chúng ta.

- Có ý thức trông thấy và chuyển hóa tất cả những đối tượng của tâm trí thành nguồn lợi ích.

- Quán niệm về tâm bình đẳng đối với chủ thể và đối tượng.

- Cố gắng thấy và cảm nhận những gì đang diễn ra trong đời sống là không thật, giống như một giấc mộng do khuynh hướng tâm chúng ta dựng lên và củng cố.

Mục cuối cùng ở trên là một phương diện đặc thù của Phật Giáo Tây Tạng được dùng trong pháp Yoga mộng và những pháp thiền khác. Việc luyện tâm để thấy cuộc đờiảo mộng giúp giải trừ sự bám giữ và tham muốn đời sống này. Rồi khi cái chết và kinh nghiệm sau khi chết đến với chúng ta, chúng ta sẽ thấy chúng giả ảo, giống như những giấc mộng, và sẽ có thể đối phó với chúng một cách dễ dàng.

Trong giấc ngủ có khi người ta nhận ra là mình đang mộng và những gì đang diễn ra chỉ là một giấc mộng. Có những cách tập luyện để có ý thức như vậy, một kỹ thuật được gọi là mộng tỉnh táo. Chúng ta có thể học cách "thức dậy" trong những giấc mộng của mình và nhận ra rằng chúng là mộng, do đó giải trừ mối lo sợ hay đe dọa nào đó và chuyển nó thành điều tốt. Cũng giống như vậy, sau khi qua đời, khi chúng ta ở trong cõi trung ấm Bardo, nếu chúng ta có thể nhận ra tất cả những gì xảy ra với mình trong cõi đó chỉ là những ảo ảnh thì mọi kinh nghiệm đáng sợ kia sẽ không có hiệu lực nữa mà còn chuyển thành những điều tốt.

Các vị Thầy dạy rằng nếu luyện pháp Yoga mộng, chúng ta sẽ có thể nhận ra những trạng thái sau khi chết (trạng thái chân tánh và bardo, tức là giai đoạn chuyển tiếp) đúng tính chất thật của chúng ta, đó là huyễn ảo. Thêm nữa, nếu có thể nhận ra những giấc mộng chỉ là mộng bảy lần, chúng ta sẽ có thể nhận ra cõi bardo. Có những người nói rằng dễ biến đổi những kinh nghiệm bardo hơn là những kinh nghiệm mộng.

Theo đạo sư Tsele, ý nghĩ của chúng ta là điều quan trọng nhất khi luyện tập cách đối phó với những giấc mộng và cõi bardo. Chúng ta nên tạo thói quen tự nhắc nhở mình rằng tất cả những gì mình làm hay thấy đều là một giấc mộng hay cõi bardo. Nếu quán niệm sâu xa sự thật này, chúng ta chắc chắn thành công trong việc đối phó với cõi bardo sau khi chết.

Để thành công trong việc luyện tập cho lúc chết và sau khi chết, Phật Giáo Đại Thừa dạy chúng ta trước hết hãy tìm môt vị Thầy thông thái, đáng tin cậy. Rồi chúng ta phải học những giáo lý của các vị Thầy. Chúng ta nên tìm hiểu kỹ những gì mà mình đã học được và chứng nghiệm trí tuệ của các giáo lý bằng thiền quán. Chúng ta phải mở rộng tâm của mình đối với chúng sinh, thông cảm với họ giống như với Mẹ của mình. Chúng ta nên cư xử với chúng sinh với thái độ bình đẳng, từ áivui vẻ. Chúng ta nên luyện sáu hạnh hoàn hảo: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ chứng ngộ chân tánh. Jigme Lingpa phát nguyện như sau: "Trong cuộc đời tôi nguyện tu tập, làm hài lòng vị đạo sư, nương tựa trí tuệ học, phân biện và thiền quán, gây dựng hạnh xả ly, thái độ giác ngộ và sáu hạnh hoàn hảo".

Giáo lý Drogchen (Đại Hoàn Thiện) dạy rằng cần phải biết mình sẽ làm gì sau khi chết, khi chúng ta gặp "tánh quang minh" và " hình ảnh quang minh hiện diện tự nhiên" xuất hiện cùng với chân tánh. Để biết phải làm gì, chúng ta phải hành thiền thâm mật ngay trong kiếp này. Chúng ta trước hết phải hiểu tính chất thật của tâm trí của mình, rồi phải duy trìcủng cố sự hiểu biết đó bằng cách thiền quán về nó. Khi chứng ngộ chân tánh của mình, chúng ta sẽ cảm nhận tất cả những gì xuất hiện trước mắt mình, dù trong ý thức của mình, trong đời sống hay lúc chết đều là sự hiện diệnbiểu lộ của chân tính đó. Vì vậy Longchen Rabjam viết: " Trong cuộc đời, ngay khoảnh khắc hiện tại này, chúng ta phải chứng ngộ trí tuệ của chân tâmpháp thân. Rồi duy trì lực thiền quán tự nhiên đó trong trạng thái quang minh. Rồi mọi hiện tượng sẽ xuất hiện như lực trí tuệ hiện diện tự nhiên".

Chúng ta có cơ hội tuyệt vời trong kiếp này, nếu chúng ta đi theo đường đạo và thành tựu chứng ngộ chân tánh của mình và đó là Phật quả.

Chúng ta cũng có cơ hội tốt để chuyển di thần thức đến một cõi tịnh độ nếu chúng ta tôn thờ các vị Phật như Phật Vô Lượng Quang và cõi Cực Lạc. Do tu tập pháp Phowa, tức chuyển di thần thức, chúng ta có thể tái sinh trong cõi tịnh một cách trực tiếp, không cần phải đi qua những giai đoạn khác nhau của tiến trình chết. Một hành giả khác cũng có thể làm pháp Phowa cho chúng ta, khi chúng ta còn sống, hấp hối hay ở trong cõi bardo.

Nếu chưa đạt thành tựu cao nào, dù đã tích lũy nhiều công đức, chúng ta sẽ trải qua những kinh nghiệm lúc chết và đây là đề tài của chương kế tiếp.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 216)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(Xem: 215)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng –
(Xem: 339)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(Xem: 688)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(Xem: 684)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(Xem: 803)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(Xem: 776)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(Xem: 1070)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(Xem: 1297)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 1109)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(Xem: 2399)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(Xem: 1781)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(Xem: 3484)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(Xem: 1599)
Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một.
(Xem: 2552)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(Xem: 2321)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(Xem: 1967)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(Xem: 2925)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(Xem: 1997)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(Xem: 2356)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(Xem: 1784)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(Xem: 1671)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(Xem: 2410)
Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok.
(Xem: 1484)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(Xem: 2794)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(Xem: 1847)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(Xem: 3751)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(Xem: 2102)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(Xem: 1939)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(Xem: 2483)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(Xem: 4447)
Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1].
(Xem: 1884)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(Xem: 2795)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(Xem: 1618)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(Xem: 2517)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2607)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2018)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3586)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(Xem: 3037)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(Xem: 1974)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(Xem: 1998)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(Xem: 2329)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(Xem: 2040)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(Xem: 1877)
Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche
(Xem: 2435)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(Xem: 2097)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(Xem: 2136)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(Xem: 2548)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(Xem: 3616)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(Xem: 2182)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(Xem: 3293)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(Xem: 2950)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(Xem: 5235)
Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.
(Xem: 2596)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(Xem: 3883)
Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.
(Xem: 5287)
Hôm nay, chúng ta đều đã đến Vườn Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, Ấn Độ, vùng đất của chư Thánh giả, nơi đã được cúng dường lên Đức Phật.
(Xem: 3828)
Điều đầu tiên mà bạn cần hiểu là mọi hữu tình chúng sinh đang sống trên thế giới này – ‘hữu tình chúng sinh của tam giới của sự tồn tại’ – là một sản phẩm của tâm.
(Xem: 2737)
Khi chúng ta nhìn vào hiện tượng vật chất trong thế giới này, chúng ta thấy rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của nó.
(Xem: 2472)
Guru Rinpoche chào đời tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài sách tấn các đệ tử hãy hoan hỷ bởi Ngài sẽ trở lại là Guru Rinpoche.
(Xem: 2689)
Gần đây, nhiều người hỏi về Khandro Rinpoche tôn quý và những hoạt động tâm linh của Bà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant