Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8

10 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 22719)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8
KYABJE DORZONG RINPOCHE ĐỜI THỨ 8
Việt dịch: Nhóm Thuận Duyên

Chi tiết cụ thể về sự ra đời của Dorzong Rinpoche hiện thời đã được báo trước rất rõ ràng bởi Kyabje Drukpa Yongdzin Rinpoche đời thứ 7, vị thầy gốc của Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 7. Những chi tiết này cũng đã được dự liệu bởi Ngài Kyabje Khamtrul Rinpoche đời thứ 8 và cả Kyabje Agon Rinpoche, bậc thầy thành tựu nổi tiếng của dòng truyền thừa Drikung tại một nơi xa xôi hẻo lánh ở miền Trung Tây Tạng.

Khi thụ thai Kyabje Dorzong Rinpoche, mẫu thân Ngài mơ thấy khi bà đang đứng giữa một thung lũng nhuộm đầy sắc hoa vàng, thì từ bầu trời phía Đông xuất hiện một tấm thảm dài được kết bởi những đám mây trắng muốt, rất nhiều vị Lạt ma ngự trên đó. Các ngài đội chiếc mũ đỏ rất lạ mà bà chưa từng thấy bao giờ. Chính giữa là một vị Lạt ma rất trẻ đẹp đang an tọa trên tòa. Ngài đắp trên mình bộ y trắng và đội mũ trắng với một chiếc vương miện chóp cao. Vị Lạt ma trẻ nhìn bà với ánh mắt hỉ lạc.

lập tức cảm thấy tràn ngập lòng sùng kính vô hạn và vội hái lấy một bó hoa lớn dâng cúng dường vị Lạt ma trẻ cùng chư vị Lạt ma khác.

blankblank

(Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ tám)

 

Kể từ đêm đó, một sinh linh mới dần dần trưởng dưỡng trong bà. Gần 3 năm sau, khi dự lễ đăng quang của con trai (Ngài Kyabje Dorzong Rinpoche hiện tại), tại tu viện Dorzong, lần đầu tiên bà được thấy chiếc mũ thiền của dòng Drukpa Kagyu và lập tức nhận ra nó trong giấc mơ trước đây của mình. Ngay khi bà miêu tả chiếc mũ chóp cao mà vị Lạt ma trẻ kia đội, các vị Lạt ma cao cấp tại tu viện Dorzong đều đáp lại rằng đó chính là chiếc mũ của Ngài Rechunpa. Gốc các hóa thân của các vị Dorzong là Ngài Kim Cương Thủ, ngài A Nan, Palgye Dorje, một trong 25 đại đệ tử của Ngài Liên Hoa Sinh và Rechungpa, một trong hai bậc thầy chính nắm giữ dòng truyền thừa của các giáo huấn Milarepa.

Kyabje Dorzong Rinpoche được hạ sinh vào một sáng bình minh đầu hè. Một đám mây nhẹ đã mang đến cơn mưa phùn tươi tốt và cầu vồng xuất hiện ngay trên nóc nhà gia đình Ngài trú ngụ. Trước những điềm cát tường đó, mọi người dân trong ngôi làng Ngeyul đều dám chắc đứa trẻ chính là một vị hóa thân. Cũng sáng hôm đó, một hình hoa sen đã xuất hiện trên bề mặt của bốn trong số 7 bát cúng dường trong phòng thờ của gia đình Ngài. Bức hình in đậm và không thể tẩy được dưới đáy chiếc bát làm từ chiếc chuông bằng kim loại. Những tài sản quý giá của gia đình đều đã bị phá hủy hết từ thời Cách mạng Văn hóaTây Tạng.

Lại cũng sáng hôm đó, một cặp quạ bỗng dưng xuất hiện và đậu trên mái nhà. Chúng lưu lại đó cho đến lúc cậu bé Kyabje Dorzong Rinpoche được đưa tới tu viện của mình. Sau đó người ta mới phát hiện ra rằng chúng chính là đôi quạ thường sống tên mái nhà của các vị hộ pháp của Gonkhang tại tu viện Dorzong ở Gon Jo đã biến mất vào thời điểm Dorzong Rinpoche chào đời. Tu viện Dorzong được thành lập dưới thời Ngài Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 4, theo lời thỉnh cầu có được một tu viện mới trên lãnh địa của người dân vùng Gon Jo. Tu viện mới mất chừng hai ngày đi ngựa từ Ngeyul.

Kyabje Dorzong Rinpoche đăng quang từ năm ba tuổi và Ngài bắt đầu tu học từ năm lên 5. Ngài chứng tỏ năng khiếu của mình trong các bài đọc, bài viết và học thuộc lòng. Năm lên 7, Ngài viếng thăm tu viện Khampagar và hạnh ngộ Kyabje Khamtrul Rinpoche đời thứ 8. Vào thời điểm này, “ Đại Pháp Hội Liên Hoa Sinh” đang được thực hành tại Tu viện Khampagar. [Pháp hội thực hành] Nghi quỹ này 12 năm mới diễn ra một lần và kéo dài trong một tháng. Ngài Kyabje Dorzong Rinpoche trẻ tuổi đã tham dự pháp tu và hoàn thành nghi lễ nhờ vào trí nhớ của mình. Đông đảo mọi người chứng kiến điều kỳ diệu này đều có cảm giác vị Rinpoche trẻ thật đặc biệt.

blank

Kể từ đó, Kyabje Dorzong Rinpoche bắt đầu thọ nhận các quán đỉnh, giáo lý và các pháp tu cao hơn của Drukpa Kagyu từ Kyabje Khamtrul Rinpoche. Năm 8 tuổi, Ngài được tiếp thu giáo huấn của tất cả các truyền thống, đặc biệtĐại Thủ ẤnĐại cứu cánh từ Kyabje Ragtul Rinpoche, vị Lạt ma dòng Nyingma vô cùng được sùng kính bởi các bậc thầy của tất cả các trường phái. Cũng vào lúc này, Ngài bắt đầu học những giáo lý và luận điển cơ bản của Phật giáo về ba giới nguyện. Ngài nghiên cứu các luận điển của Tịch Thiên và các vị Bồ Tát khác, đồng thời nghiên cứu về ba bộ luận chính của Trung Quán Tông cùng các vị hóa thân Đại Đức Tashi Namgyal và Drayab Khenpo Lodru, một trong số Khenpo nổi tiếng nhất của dòng Sakya lúc bấy giờ ở tỉnh Kham.

Bước lên 9, Ngài thọ nhận các Pháp Thiền siêu việt Đại Thủ ẤnĐại cứu cánh đồng thời được Kyabje Ragtul Rinpoche (một trong những bậc thầy bất bộ phái đáng kính nhất thời đó) đích thân hướng dẫn và còn được thọ nhận trọn bộ kho tang các giáo huấn Mật điển của dòng Kagyu ( Kagyu Ngag Dzod) cũng như tất cả các trao truyền của các terma Namchoe khác. Ngoài ra, Ngài còn nhận được ba Pháp tu chính của dòng Nyingma, các Pháp Hộ pháp của Đức Liên Hoa Sinh được phát hiện từ thế kỷ 11, và trọn bộ giáo huấn từ Ngài Tsele Natsog Rangdol. Cùng lúc, Ngài còn thọ nhận 100.000 giáo huấn Mật điển cổ truyền của truyền thừa Nyingma (Nyingma rgyud ‘bum) từ Đại Đức Rongmi Lama Gedun.

Năm 14 tuổi, Ngài bước vào bậc học cao hơn tại Viện nghiên cứu của Tu viện Khampagar, tại đây Ngài đã theo học dưới sự dìu dắt của Khenpo Perma Tharchin đến từ Kathog, một tu viện Nyingma cổ. Dưới sự chỉ dạy của vị Khenpo lỗi lạc, Ngài được học về Đại Thủ Ấn và hai luận điển Câu xá Tông chính, cũng như các giáo lý triết học Phật giáo củai Kyanje Mipham Rinpoche. Ngài luôn xuất sắc đứng đầu lớp trong mọi kỳ thi.

blankblank

(Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 cùng với ngài Drugu Choegyal Rinpoche ở Bồ Đề Đạo Tràng)

 (Rinpoche đi bộ gần sông Naranjana, trong chuyến hành hương, năm 1999)

Có lần Kyabje Dorzong Rinpoche được người dân xứ Rongmi mời tới thăm vùng đất của họ gần tu viện gốc Dorzong. Ở đấy có dãy núi Yongten Ritra trùng điệp (Ngọn núi công đức rực rỡ) và rất nhiều hồ được đồn đại là nơi chôn giấu các kho tàng giáo lý của Đức Liên Hoa Sinh. Đoàn dừng lại trên một cánh đồng cỏ, nơi những người du mục cúng dường các Ngài sữa chua và sữa. Bầu trời trong và xanh. Nhưng khi các Ngài bắt đầu cất lời cầu nguyện thì bỗng dưng hai đụn mây xuất hiện trên khoảng trời ngay trên đầu họ. Sau đó, từ hai đụn mây lớn kia lần lượt tách ra từng làn mây nhỏ bồng bềnh trôi đến nối đuôi nhau làm nên chín dải mây dài tuyệt hảo. Người dân tụ tập ở đó đều hết sức kinh ngạc. Sau hồi lâu tĩnh lặng chìm trong ngạc nhiên, chín dải mây lại tan ra về quy tụ trong đụn mây. Hai đụn mây lại nhập vào nhau, và rồi những hồi sấm vang rền kèm theo sau đó là một trận mưa. Các bậc cao niên du canh du cư đều thừa nhận rằng trong suốt cả cuộc đời mình các vị chưa từng được chứng hiện một hiện tượng nào kỳ lạ đến vậy. Khi nghe câu chuyện, một trong những vị thầy gốc đầu tiên của Kyabje Dorzong Rinpoche, Kyabje Ragtul Rinpoche đã giảng giải rằng bởi lẽ các vị thần địa phương, những người coi giữ các giáo lý của Đức Liên Hoa Sinh có mối liên kết với Kyabje Dorzong Rinpoche đời quá khứ nên những đám mây này, như chiếc khăn mà chín vị hộ thần nơi đây cúng dường lên để chào đón chuyến viếng thăm đầu tiên của vị hóa thân trẻ.

Năm 1958, Kyabje Khamtrul Rinpoche quyết định rời Tây Tạng đến Ấn Độ và đề nghị Kyabje Dorzong Rinpoche, lúc bấy giờ 15 tuổi, đi cùng Ngài. Trong cuộc hành trình băng qua Lhasa, họ đã có cơ duyên hạnh ngộ Đức Đạt lai Lạt ma. Tiếp sau đó, họ hành hương đến các thánh địa ở miền Trung Tây Tạng trước khi qua Sikkim và đến dừng chân tại Ấn Độ. Kể từ năm 1959, họ lưu lại tại Kalimpong. Tại đây, Kyabje Khamtrul Rinpoche đã xây dựng nên ngôi đền Zandok Palri với sự đóng góp, hỗ trợ từ người dân Sikkim, Bhutan và Tây Tạng để có thể lại tiếp tục thực hành các giáo Pháp, bao gồm cả các vũ điệu Lạt ma.

Kyabje Dorzong Rinpoche lập tức nối lại quá trình học tập của mình về triết học, Kinh điển Phật giáo và các mật điển với ba vị Hòa thượng, Khenpo Thupchoe và Khenpi Tsondue của trường phái Nyingma và Khenpo Rinchen trường phái Sakya. Cho đến tận khi thành lập Tashi Jong năm 1969, Kyabje Dorzong Rinpoche vẫn phải đi lại giữa Kalimpong, Dalhousie và Kangra. Trong thời gian này, Ngài thọ nhận các quán đảnh, giáo lý Đại Thủ Ấn cũng như chỉ dẫn từ Kyabje Khamtrul Rinpoche đời thứ 8. Ngài còn nhận được vô số các quán đỉnh, giáo lýchỉ dẫn từ Đức Pháp Vương Karmapa đời thứ 16 và Kyabje Dilgo Khyentse Rinpoche. Năm 1969, Ngài trở thành một Khenpo (tu viện trưởng của viện giáo dục tu sĩ) của tu viện Drukpa Kagyu tại Tashi Jong.

Năm 1971, do lịch làm việc quá ngặt nghèo cùng các vấn đề về sức khỏe của Kyabje Khamtrul Rinpoche, người dân vùng Tashi Jong đã đề nghị Kyabje Dorzong Rinpoche lên làm Phó hiệu trưởng của Tu viện Khampagar và Phó Chủ tịch Cộng đồng người dân Tashi Jong. Khi Kyabje Khamtrul Rinpoche viên tịch năm 1980, Ngài được bầu giữ chức Hiệu trưởng.

blank

 (Hạnh ngộ với đức Đạt Lai Lạt Ma)

blank

 (Giảng Pháp ở Lhasa, Tây Tạng)

 

Tại vị trí đó, cùng với Pháp Vương Karmapa đời thứ 16 và Kyabje Dilgo Khyentse Rinpoche, Ngài thưc hiện tất cả các cuộc tham vấn và sắp xếp cho việc thừa nhận sự tái sinh của Kyabje Khamtrul Rinpoche đời thứ 9. Lễ đăng quang được tổ chức năm 1983. Với cương vị là Nhiếp chính vương của Kyabje Khamtrul Rinpoche đời thứ 8 kiêm Hiệu trưởng của Tu viện Khampagar ở Ấn Độ đồng thời là Chủ tịch Cộng đồng người Tây Tạng ở Tashi Jong, Kyabje Dorzong Rinpoche đã cống hiến suốt 21 năm với lòng bi mẫn, trí tuệnăng lượng vĩ đại cho sự tiến bộ của tu viện và cộng động cư sĩ. Cùng với việc củng cố các trung tâm nghệ thuật thủ công và các hoạt động văn hóa, Ngài còn lập nên trung tâm y tế, trường mẫu giáo và Viện nghiên cứu cho các bậc học cao hơn. Vào những năm 1990, Ngài thọ nhận trọn vẹn các quán đỉnh của truyền thừa Drukpa từ Đức Kyabje Trulsik Adeu Rinpoche đời trước.

Song song với các hoạt động trên, Kyabje Dorzong Rinpoche luôn chú tâm thực hành thiền định và các giáo lý truyền thừa một cách miên mật, thuần tịnh và không gián đoạn. Tất cả những điều đó đã cấu thành nên tư cách một bậc thầy đích thực, người nắm giữ truyền thừa Drukpa Kagyu.

Năm 1984, Kyabje Dorzong Rinpoche có cơ hội trở về Tây Tạng và thăm lại tu viện của mình. Tại đó, Ngài được mời thuyết Pháp tại các tu viện của tất cả các trường phái của Phật Giáo Tây Tạng. Ngài đã giúp đỡ các hành giả rất nhiều thông qua việc ban truyền quán đảnhgiáo lý mà họ bị gián đoạn trong thực hành.

Ngài còn đi đến nhiều nước để thuyết giảng, từ đó dần hình thành nên một số cộng đồnghành giả đáng chú ý.

 

Bên cạnh việc thực hành giáo lý của truyền thừa Drukpa, Rinpoche còn thực hành nhiều giáo lý của các dòng truyền thừa Phật giáo Tây Tạng khác. Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng còn tại thế hiện nay. Ngài là một trong số các bậc thầy nắm giữ truyền thừa, là bậc tôn quý đáng kính nhất của Drukpa Kagyu bởi những cống hiến của Ngài tại quê nhà cũng như cả khi lưu vong.

blank

(Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ tám cùng với ngài Drugu Choegyal Gyamtso Rinpoche và ngài Drubwang Tsoknyi Rinpoche – bên phải ngoài cùng, năm 2008).

Nguồn: http://www.dorzongrinpoche.org/8drzng.htm

Việt dịch: Nhóm Thuận Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 290)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(Xem: 288)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng
(Xem: 382)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(Xem: 755)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(Xem: 747)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(Xem: 861)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(Xem: 834)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(Xem: 1126)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(Xem: 1359)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 1150)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(Xem: 2447)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(Xem: 1836)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(Xem: 3536)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(Xem: 1668)
Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một.
(Xem: 2603)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(Xem: 2375)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(Xem: 2030)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(Xem: 2983)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(Xem: 2073)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(Xem: 2400)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(Xem: 1839)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(Xem: 1730)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(Xem: 2464)
Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok.
(Xem: 1532)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(Xem: 2834)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(Xem: 1893)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(Xem: 3812)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(Xem: 2143)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(Xem: 1976)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(Xem: 2535)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(Xem: 4510)
Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1].
(Xem: 1942)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(Xem: 2839)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(Xem: 1663)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(Xem: 2565)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2651)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2045)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3631)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(Xem: 3091)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(Xem: 2015)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(Xem: 2069)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(Xem: 2393)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(Xem: 2085)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(Xem: 1930)
Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche
(Xem: 2477)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(Xem: 2149)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(Xem: 2174)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(Xem: 2589)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(Xem: 3665)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(Xem: 2244)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(Xem: 3345)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(Xem: 3021)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(Xem: 5291)
Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.
(Xem: 2634)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(Xem: 3916)
Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.
(Xem: 5335)
Hôm nay, chúng ta đều đã đến Vườn Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, Ấn Độ, vùng đất của chư Thánh giả, nơi đã được cúng dường lên Đức Phật.
(Xem: 3875)
Điều đầu tiên mà bạn cần hiểu là mọi hữu tình chúng sinh đang sống trên thế giới này – ‘hữu tình chúng sinh của tam giới của sự tồn tại’ – là một sản phẩm của tâm.
(Xem: 2799)
Khi chúng ta nhìn vào hiện tượng vật chất trong thế giới này, chúng ta thấy rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của nó.
(Xem: 2527)
Guru Rinpoche chào đời tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài sách tấn các đệ tử hãy hoan hỷ bởi Ngài sẽ trở lại là Guru Rinpoche.
(Xem: 2739)
Gần đây, nhiều người hỏi về Khandro Rinpoche tôn quý và những hoạt động tâm linh của Bà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant