Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bốn con đường của Trí tuệ

15 Tháng Tư 201200:00(Xem: 27713)
Bốn con đường của Trí tuệ
BỐN CON ĐƯỜNG CỦA TRÍ TUỆ

Ngài Shamar Rinpoche

Trích trong bài giảng trong lễ Phowa ở Bodhi Path Virginia, 20/6/2004

Tôi muốn chia sẻ một giáo lý truyền thống rằng làm cách nào để rèn luyện một cách đánh giá tốt. Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Tôi tin rằng rất nhiều vấn đề của xã hội hiện đại có thể được giải quyết nếu người ta nghe theo những lời khuyên đơn giản này.

Tôi gọi giáo lý này là “Bốn con đường của Trí tuệ”. Người có trí tuệ sẽ biết ai và những gì họ có thể dựa vào. Từ đó họ có thể tránh được rất nhiều cái bẫy của những suy nghĩ lộn xộn.

Bài giảng này bao gồm bốn châm ngôn đơn giản:

1. Dựa vào giáo lý chứ không phải là người thầy

2. Dựa vào ý nghĩa chứ không phải từ ngữ

3. Dựa vào chiều sâu chứ không phải bề mặt

4. Dựa vào trí tuệ chứ không phải khái niệm

 

1. Dựa vào giáo lý chứ không phải người thầy

Chúng ta thường bị ấn tượng bởi những bậc thầy khiến ta lóa mắt vì sức lôi cuốn của mình. Những nhân cách mạnh mẽ thường mang đến những cảm xúc mãnh liệt cho những thính giả của họ. Những giảng sư hoặc những bậc thầy những người mà ta bị cuốn hút, kích động hoặc hấp dẫn có thể thúc đẩy ta hành động. Ngày nay, dường như những giảng sư phải trở thàh những “diễn giả tạo được động lực” nếu không họ sẽ không có một người đệ tử nào cả.

Điều này có thể gây ra một số vấn đề. Việc nêu tên một người dẫn đường có sức hút đã dẫn đường cho người ta đến đau khổcần thiết không? Vẻ bề ngoài có thế làm ta lạc lối. Sức lôi cuốn không nói cho ta biết tri thức của người đó là đúng hay sai.

Hãy chọn một bậc thầy tâm linh cẩn thận như khi bạn chọn một bác sĩ phẫu thuật. Cuộc sống của bạn phục thuộc vào kỹ năng của bác sĩ ấy. Và một điều dứt khoát còn quan trọng hơn phụ thuộc vào kỹ năng của người dẫn đường tâm linh.

 

Tất nhiên nhiều người có hứng thú với Phật giáo chưa cảm thấy rằng họ sẵn sàng để có một mối quan hệ cá nhân với một vị thầy. Có thể việc đọc kinh sách được viết bởi nhiều bậc thầy khác nhau đã là đủ với họ. Khi mới bắt đầu, việc thăm dò là rất hữu ích. Nhưng nếu chúng ta muốn thực hành để vượt lên trên sự nông cạn hời hợt, nếu ta muốn có sự tiến bộ, thì ta cần phải tìm một bậc thầy.

Tôi đề nghị rằng khi ta chọn một bậc thầy về giáo pháp ta nên cẩn thận như khi chọn một bác sĩ phẫu thuật bệnh ung thư. Trước khi giao phó cho một vị thầy, ta cần phải điều tra rõ. Trước tiên hãy tìm hiểu vài người. Sau đó, chọn một người cho mình dựa trên những tiêu chuẩn quan trọng nhất: kỹ năng giảng pháp, sự hiểu biết về thiền địnhtri thức về giáo pháp.

Theo truyền thống, những bậc thầy của triết học Phật giáo thì được phân biệt rõ ràng với những bậc thầy về thiền định. Việc tìm được người có đủ khả năng ở cả hai lĩnh vực này là điều không dễ. Nhưng những bậc thầy có khả năng trong thiền định còn khó tìm hơn là những người có tri thức hàn lâm trong triết học. Những người thầy về triết học có thể vẫn có khả năng dạy về thiền định cơ bản. Nhưng những pháp thực hành cao hơn chỉ có thể được giảng giải bởi những người tự mình đã đạt được bước tiến trên con đường Phật pháp.

Những bậc thầy trong Phật pháp thì nên giảng giải những giáo lý của Đức Phật, chứ không phải giáo lý của chính người đó. Do vậy việc hiểu một chút về giáo lý của Phật là rất quan trọng. Hãy đọc những sách về Đức Phật lịch sử và những thành tựu giả trong quá khứ như những đệ tử của Phật và những bậc thượng sư Tây Tạng như Milarepa. Điều đó sẽ giúp bạn đánh giá được Pháp của một vị thầy nói ra có phải là chân thực hay không.

2. Dựa vào ý nghĩa chứ không phải câu chữ

Người ta thích nghe theo những lời hay. Ngôn ngữ gây ấn tượng có thể rất có sức thuyết phục. Từ ngữ có thể rất khéo léo làm cho ý nghĩa được rõ ràng hay nó có thể làm cho mọi thứ đẹp lên, như trong một bài thơ hay bài hát, hay từ ngữ có thể được sử dụng để gây ấn tượng đối với người nghe, để cho họ biết rằng ta rất giỏi trong ngôn ngữ và ngữ pháp. Nhưng ý nghĩa mới là điều quan trọng nhất: ý nghĩa phải nên chuẩn xác.

Nhưng điều gì là ý nghĩa đúng đắn trong những sự dạy dỗ về tinh thần? Đầu tiên, để trở nên đúng đắn, lời giáo huấn phải mang lại lợi ích. Thứ hai, nó phải nói sự thật. Một khi đã có hai tiêu chuẩn như vậy, thì từ ngữ trở nên ít quan trọng. Nhưng từ ngữ được sử dụng tốt sẽ làm cho những lời huấn thị đúng đắn trở nên dễ đọc và thú vị hơn, vậy nên chúng rất hữu ích.

Vâng, nếu ta có thể rất giỏi trong ngôn ngữ như lại nói những lời dối trá, thì không chỉ những từ ngữ của ta trở nên vô giá trị, mà nó còn thật sự rất nguy hại, bởi có thể ta đã khiến cho nhiều người đặt niềm tin vào những thứ có hại và sai lầm.

Đây là một ví dụ. Chuyện kể rằng ngày xưa một học giả Bà-la-môn có một người vợ rất xinh đẹp. Khi tuổi đã cao, người Bà-la-môn ngã bệnh và biết rằng không bao lâu nữa ông ta sẽ chết. Vì là một người ghen tuông, ông ta sợ rằng có một người đàn ông khác sẽ cưới vợ mình sau khi ông chết. Vì vậy, là một học giả và rất quyết đoán, ông ta đã hành động rất cực đoan. Ông dùng hết sức lực của mình để viết một cuốn sách để thuyết phục vợ mình nhảy vào giàn hỏa thiêu trong đám tang của ông. Trong cuốn sách này, người Bà-la-môn đã nói rằng khi thân thể của ông ta được hiến tế cho thần Shiva, nó sẽ biến từ cơ thể đang cháy thành một cơ thể được giải phóng. Ông ta tiếp tục viết rằng vợ của một người Bà-la-môn không chỉ là một người vợ, mà còn là một nữ thần trong một sự kết hợp thiêng liêng, rằng cô ấy nên tham gia cùng với người chồng để cùng được giải thoát. Văn phong và ngôn ngữ trong cuốn sách thật quá hoàn hảo, và người Bà-la-môn kia đã trở thành một bậc thầy của ngôn từ. Thật sự, trong truyền thuyết, cuốn sách đã có sức thuyết phục rằng người vợ đã nhảy vào lửa cùng với chồng. Và từ đó tục lệ đầy hận thù sati đã bắt đầu ở Ấn Độ. Nó đã lan truyền một cách rộng rãi ra ngoài cả vòng pháp luật của nước Anh và vẫn còn tồn tại ở một số nơi cho đến tận ngày nay.

Ngôn từ là một bông hoa, nó có thể là thứ để trang trí. Nhưng ý nghĩa mới là phần chân thật. Ngôn từ hay và đẹp nhưng không có ý nghĩa thì giống như là đá quý ở trên một xác chết. Sức mạnh của ý nghĩa sẽ được truyền tải dù cho ngôn từ không ấn tượng, giống như một người phụ nữ đẹp không trang điểm, nhưng vẻ đẹp tự nhiên của người ấy vẫn tỏa sáng. Từ ngữ sử dụng khéo léo cùng với một ý nghĩa đúng đắn thì giống như một người phụ nữ đẹp, sức quyến rũ tự nhiên của người ấy càng được nổi bật thêm nhờ những đồ trang sức đẹp đẽ.

3. Dựa vào chiều sâu chứ không phải bề mặt

Không có ai cố gắng để trở nên nông cạn, nhưng rất nhiều người trong chúng ta lại rất vội vàng và thiếu tự tin trong chính sự phán đoán của mình, khiến cho ta phụ thuộc vào những ý tưởng mà mình tiếp nhận, những định kiến và khuôn sáo. Đặc biệttrong đời sống tinh thần, việc phải tìm hiểu giáo lý cho bản thân mình là rất quan trọng. Không có lời kêu gọi nào dành cho niềm tin mù quáng trong Phật Pháp. Ngược lại, ta cũng không thể tiến bộ trên con đường Phật Pháp nếu ta không sẵn sàng để tiến xa hơn mức thông thường.

Trong Phật giáo, việc phải nhìn bên sâu vào bên trong vẻ bề ngoàiđặc biệt quan trọng. Đức Phật đã giảng pháp ở rất nhiều mức độ khác nhau tùy thuộc vào khả năng của những người nghe pháp, dù là người mới bắt đầu hay những hành giả cao cấp. Nhưng, dù là những giáo pháp khởi đầu cũng có thể thể hiện những thông điệp uyên thâm cho các hành giả cấp cao, những người có khả năng giải mã chúng.

Quan trọng hơn, ta cần phải có khả năng để nghĩ sâu hơn để nhận được những sự lợi lạc từ pháp. Để tôi giải thích điều này.

Nếu bạn có một vấn đề, bạn nên tìm cách giải quyết phù hợp với vấn đề đó. Nếu vấn đề này đơn giản, bạn có thể tìm một cách giải quyết nhanh chóng và dễ dàng. Nhưng nếu vấn đề của bạn phức tạp, bạn sẽ cần một cách điều trị thích hợp. Và nếu vấn đề của bạn là vấn đề sâu sắc nhất mà con người và các chúng sinh hữu tình có thể trải quavấn đề của đau khổ và sự sống còn – thì ta sẽ cần một giải pháp sâu sắc, phương thuốc mạnh mẽ nhất mà ta có.

Nếu ta không có si mê, thì ta không cần phải giải quyết chúng. Phật và Pháp cho ta hướng đi đến sự giác ngộ. Để mang được những phẩm chất của sự giác ngộ ra khỏi mớ hỗn độn của sự si mê thường ngày của chúng ta, Pháp phải được áp dụng vào mọi mặt của chính sự si mê ấy. Bằng cách này, cách giải quyết sẽ đến trực tiếp từ vấn đề của chúng ta. Một văn bản nổi tiếng được viết bởi nhà triết học cổ đại của Ấn Độ Vasubandhu, bản Abhidharmakosha (“Kho báu của Pháp sáng tỏ”) nói rằng nếu ta sử dụng phương thuốc cứu chữa cho những vấn đề nhỏ, thì cuối cùng chúng ta sẽ bóc được cả vấn đề lớn nhất của chính mình, sự si mê.

Do vậy, sự vô minh tối tăm nhất có thể được xóa bỏ bởi việc thiền định đơn giản nhất. Ví dụ, ta có thể giảm được ham muốn tính dục bằng cách thiền quán về người chết. Nhưng, sự vô minh vi tế nhất lại chỉ có thể xóa bỏ bởi trí tuệ uyên thâm nhất. Ví dụ, ta phải có Tâm định Kim Cương (Diamond Samadhi), mức độ cao nhất của sự tinh tấn thiền định trước giác ngộ, để có thể xóa được sự vô minh vi tế còn tồn tại đến bước cuối cùng của con đường Phật pháp.

Làm theo những lời này có nghĩa rằng bản thân bạn không nên tự thỏa mãn với những suy nghĩ nông cạn và cũng như việc bạn cũng không nên khuyến khích sự chỉ trích của những người khác.

4. Dựa vào trí tuệ chứ không phải khái niệm

Ở đây tôi sẽ nói gắn gọn. Câu châm ngôn cuối cùng là sâu sắc nhất, nhưng tôi sẽ chỉ nói một chút về điều này.

Đây là phần được mong đợi nhiều nhất của những người tu thiền nghiêm túc. Lĩnh hội được trí tuệ có nghĩa là nhận ra được bản chất của tâm. Để làm được việc này, ta không thể dựa vào ý thức nhị nguyên; ta sẽ đi thẳng đến tâm bất nhị, điều mà ta gọi là trí tuệ. Những người hành thiền phụ thuộc vào tâm bất nhị chứ không phải là tâm nhị nguyên thông thường. Họ biết rằng ngôn ngữ, lôgic và nguyên nhân là hữu hạn và không thể thâm nhập được vào sự chứng ngộ cuối cùng, vì vậy họ không phụ thuộc nhiều vào những điều đó.

Phụ thuộc không phải vào tâm nhị nguyên, điều đó là si mê, châm ngôn này nói, mà phải phụ thuộc vào tâm bất nhị. Đừng đi theo những ảo tưởng thông thường. Đừng quên rằng dù những ý tưởng của ta có ấn tượng hay thuyết phục thế nào, thì sự giác ngộ tối thượng cũng nằm ngoài tầm với của chúng.

 

Kết luận

Trên đây là Bốn con đường của trí tuệ. Đó có phải là biểu hiện của thế hệ suy tàn mà phần lớn chúng ta hôm nay xử sự theo cách ngược hẳn với những lời giáo huấn ấy không? Việc làm ấy là một lỗi lầm lớn chồng lên những lỗi lầm khác không phút nào dừng. Người ta tự dẫn mình đi lạc lối và sau đó làm lạc lối những người khác, lần lượt với những suy nghĩ sai lệch, tạo nên một chuỗi sai lầm nối tiếp không bao giờ hết. Làm ơn đừng để mình dính mắc vào chuỗi sai lầm ấy. Hãy tin tưởng vào bốn lời giáo huấn này, và bạn sẽ cắt được dây buộc với si mê, giống như Ngài Bồ Tát Văn Thù, người đã chứng được viên mãn trí huệ, cắt đứt hết mọi ý tưởng bằng lưỡi kiếm trí tuệ của Ngài.

 

Nguồn: http://www.dhagpo-kagyu.org/anglais/science-esprit/fondements/general/4ways-wise_shamarpa1.htm

Việt dịch: Quỳnh Anh – Nhóm Thuận Duyên
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22990)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26386)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12745)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29511)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 25909)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 15016)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 16233)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 22722)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14572)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12618)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18900)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14729)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43855)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 47482)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13651)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14572)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 12525)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40387)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43414)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 14412)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14131)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39679)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 13845)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 37290)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40025)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 13777)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 37207)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 11742)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22522)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12486)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12548)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13012)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 14814)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 12429)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11936)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11922)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 12362)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 30651)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 31867)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 35372)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27779)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 11453)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31692)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 27059)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 24121)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 30850)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27075)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 28084)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23239)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23557)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 21528)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 26241)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 13017)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21863)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 14094)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 37979)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 32073)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 28533)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 19592)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7299)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant