Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Kyabje Trulshik Rinpoche (1924 – 2011)

15 Tháng Tư 201200:00(Xem: 26384)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche (1924 – 2011)

KYABJE TRULSHIK RINPOCHE (1924 – 2011)

kyabjetrulshikrinpoche

Bậc thầy người với lòng bi mẫn lớn lao mà chúng ta hằng nhớ tưởng và biết ơn, Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, là một trong số những bậc đạo sư cuối cùng hoàn thành nghiêm túc sự nghiên cứu mở rộng, các giáo huấnthực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng trong môi trường văn hóa đặc sắc của Tây Tạng trước thời kỳ Trung Quốc xâm lăng. Là đệ tử thân thiết của các hành giả Phật giáo vĩ đại của thế kỷ, bao gồm đức Dilgo Khyentse Rinpoche và đức Dudjom Rinpoche, ngài là một trong số các bậc thầy mà đức Đạt Lai Lạt Ma hằng kính trọng, ngài nắm giữ một truyền thừa giới luật quan trọng và là người thừa kế của rất nhiều các giáo huấn và sự trao truyền quý giá.

Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù. Kể từ thời của Đức Phật, để làm lợi lạc cho chúng sinh toàn cõi Ấn Độ, Nepal và Tây Tạng, ngài đã liên tục thị hiện một chuỗi dài các hóa thân, bao gồm vị đệ tử của đức Phật, ngài A Nan; vị đạo sư vĩ đại người Ấn Độ Āryadeva; Thönmi Sambhota, một trong số các vị Bộ trưởng của Tùng Tán Cán Bố (Songtsen Gampo), và tác giả của bộ sách đầu tiên về ngữ pháp tiếng Tạng (Ba mươi đoạn và sự ứng dụng của các kí hiệu); đức tu viện trưởng Śāntarakṣita; đại dịch giả Vairochana; ở Nepal, Phamthingpa Vāgīśvarakīrti (Ngawang Trakpa); Rechungpa, vị đệ tử thân cận của Milarepa; thành tựu giả vĩ đại Lékyi Dorje ở xứ Lhodrak; và đức Zhadeu Trulshik Kunga Rinchen. Đây chỉ là một vài trong số các hóa thân đời trước của đức Trulshik Rinpoche, nhiều hơn trong số các hóa thân được đề cập đến trong lời cầu nguyện cho lần tái sinh tiếp theo của ngài – nhưng thực tế là, phạm vi các hành động của một bậc giác ngộ là không thể nghĩ bàn, cho dù là với các vị Đại Bồ Tát, chứ đừng nói gì là những người sơ cơ như chúng ta.

Gia đình phía cha của ngài trong lần hóa thân này, Tenzin Chödar, có thể truy nguyên từ một thành viên của bộ tộc Licchavi ở Ấn Độ, người mà đã được đưa đến Latö ở Tây Tạng trên lưng của vị nữ bảo hộ Palden Lhamo cải trang thành một con gấu. Mẹ của ngài, Jamyang Wangmo, là con gái trong một gia đìnhtổ tiên là đức Önré Dharma Senge, cháu trai của tổ sang lập dòng Drukpa Kagyu, Tsangpa Gyarepa. Gia đình vẫn cư ngụ tại ngôi nhà của đức Onre ở vùng Nakartsé gần Yamdrok Taklung ở vùng hạ Tsang, và ở đó, trong một hang động nơi mà Önré đã thực hành phía bên trên ngôi nhà, đức Trulshik Rinpoche đã ra đời vào ngày mùng 10 của tháng 9 trong năm con Chuột Gỗ (tức ngày 6/11/1924), với nhiều dấu hiệu kỳ lạ.

Lên bốn tuổi, Trulshik Rinpoche đi thăm một vùng được gọi là Dzarong Phu, ở quận Shelkar ở Latö, theo lời đề nghị của Dzatrul Rinpoche, Ngawang Tenzin Norbu, vị đệ tử thân thiết của lần hóa thân trước đó, Trulshik Donga Lingpa, và cũng được biết đến như là Zhadeu Kunzang Thongdröl Dorje. Khi mà ngài ở đó, trí nhớ về các sự kiện trong đời trước bỗng trào dâng trong tâm trí ngài. Ngài kể lại chúng một cách chi tiết – trước sự ngạc nhiên của Dzatrul Rinpoche, người đã chứng kiến tân mắt những sự kiện này. Tin chắc rằng, cậu bé chính là hóa thân của Trulshik Donga Lingpa, Dzatrul Rinpoche công nhận và làm lễ đăng ngôi cho ngài, và kế đó, truyền lại cho ngài mọi giáo pháp của người tiền nhiệm.

Trulshik Rinpoche đã nghiên cứu sâu rộngtu viện Mindrolling, nơi tu học vĩ đại của truyền thống Cựu Dịch. Cũng ở đó, từ bậc thầy Trikhen Chung Rinpoche và Minling Khenchen Khyentse Norbu Rinpoche, ngài nhận trọn vẹn giới Cụ túc từ một dòng truyền thừa giới luật từ đức Lachen Gongpa Rabsel, và ngài trở thành một trong các vị trì giữ dòng truyền thừa đó. Ngài cũng nổi tiếng vì tính kỷ luật của mình.

Ngài đã nhận và nghiên cứu chi tiết rất nhiều kahma, terma và các kiến thức khác, từ hơn 30 vị thầy quan trọng, trong đó có các vị đạo sư của Dòng Nyingma, như đức Minling Dodzin Rinpoche, vị nữ lama nổi tiếng Shuksep Jetsun Rinpoche, đức Dudjom Rinpoche Jikdrel Yeshe Dorje, và đức Dilgo Khyentse Rinpoche; và với các đạo sư của dòng Gelug như đức Lhundrup Tsöndru Rinpoche của tu viện Ganden, đức Phurchok Jamgon Rinpoche, đức Gendun Tashi Rinpoche của tu viện Drepung, và bậc nắm giữ pháp tòa Ganden đức Ling Rinpoche, Đức Đạt Lai Lạt Ma và vị phụ tá đức Serkong Rinpoche; từ đức Sakya Drolma Podrang Rinpoche, Phuntsok Podrang Rinpoche, Ngor Luding Khenchen Jamyang Tenpai Nyingma Rinpoche và đặc biệt từ vị đạo sư bất bộ phái Dzongsar Khyentse Rinpoche Chökyi Lodrö.

Ngài không chỉ nghiên cứu mà còn thực hành tất cả các giáo huấn và trao truyền quan trọng. Ngài hoàn thành rất nhiều đợt nhập thất ba năm cẩn mật, và sử dụng mọi thời gian có thể để thực hànhnghiên cứu. Tựu chung lại, Trulshik Rinpoche đã giành ít nhất là 60 năm trong cuộc đời để nhập thất.

Theo lời khuyên của Dzatrul Rinpoche, ngài tiếp quản nhiệm vụ tu viện trưởng ở tu viện Dzarong Dongak Chöling, gìn giữ, bảo vệ và hoằng dương các giáo pháp. Đặc biệt, mỗi năm ở Tây Tạng (và sau đó là ở tu viện ở Nepal, Thubten Chöling), ngài hướng dẫn cho các đệ tử - tăng, ni và Phật tử trong các khóa nhập thất theo mùa về sự thực hành theo các sắp xếp của Dzatrul Rinpoche về Ba mươi bảy Pháp hành Bồ tát đạo của Gyalse Thogme, các sự thực hành tiên yếu của Jowo Thugje Chenpo và của Kho tàng Phương bắc Zer Nga.

Khi Tây Tạng bị xâm chiếm vào những năm 1950, Trulshik Rinpoche rời khỏi đất nước và xây dựng một tu viện ở miền hẻo lánh Khumbu của Nepal, gần núi Hy Mã Lạp Sơn, nơi mà ngài đã thiết lập vị tríbản như là người đứng đầu của một cộng đồng tăng, ni và Phật tử lớn và phát triển.

Khi Trulshik Rinpoche ở tuổi 38, ngài nhận các quán đảnh, trao truyền qua sự đọc và sự giải thích toàn thể Kahma của dòng Nyingma từ đức Dudjom Rinpoche ở Kalimpong, Đông Bắc Ấn Độ, ngài cũng là người bảo trợ cho các giáo pháp quan trọng đó. Đây là cơ hội đầu tiên ngài được gặp đức Dilgo Khyentse Rinpoche. Chính trong cuộc gặp gỡ đầu tiên này, từ vị đạo sư vĩ đại, ngài nhận được, như là một sự kết nối quan trọng, những chú giải về Bức thư gửi đệ tử của ngài Long Thọ. Khyentse Rinpoche sau đó tham vấn ngài về các kho tàng do chính ngài (Trulshik Rinpoche) phát lộ, như Nyakluk Phurba, và sau đó, trở thành bậc thầy thân thiết của ngài. Trulshik Rinpoche coi Dilgo Khyentse Rinpoche là một vị đạođặc biệt theo đúng nghĩa, và đồng thời với việc nhận các giáo lý, ngài cũng trao truyền cho Dilgo Khyentse Rinpoche một vài trong số các giáo huấn hiếm có mà ngài nắm giữ. Mối quan hệ đạo sưđệ tử mà các ngài phát triển thật là phi thường, giáo pháp được truyền từ người này sang người khác như là những thứ bên trong chiếc bình được rót sang một chiếc bình khác. Trulshik Rinpoche nhận từ Dilgo Khyentse Rinpoche một lượng lớn các giáo pháp, bao gồm Dam-ngak Dzö hoàn thiện, và các bộ pháp quan trọng khác. Trulshik Rinpoche trở thành người nắm giữ các giáo pháp của chính đức Dilgo Khyentse Rinpoche và như là một trong số các đệ tử thân thiếtthành tựu nhất của ngài, người đã đảm nhiệm công việc tìm kiếm hóa thân và tổ chức lễ đăng quang cho vị hóa thân mới.

Trước khi nhập Niết Bàn nhiều năm, Dilgo Khyentse Rinpoche đã trao truyền một bộ các giáo pháp quan trọng của dòng Nyingma cho đức Đạt Lai Lạt Ma, bao gồm các bộ pháp cơ bản về Mahayoga, Anuyoga và Atiyoga trong Mật thừa. Vinh dự tiếp tục trao truyền các phần còn lại của giáo pháp chính là của đức Trulshik Rinpoche, người sẽ tiếp tục các quán đảnhgiáo pháp cho đức Đạt Lai Lạt ma, bao gồm bộ pháp của Druptap Döjo’i Pumzang, được tích tập bởi Minling Terchen Rinpoche (người đã trao truyền các giáo lý của dòng Nyingma cho đức Đạt Lai Lạt Ma thứ V), và các cuốn sách quan trọng của Longchen Rajampa, như là Ngalso Khorsum, Bảy Kho Báu, và Nyingtik Yabzhi. Đồng thời với những giáo huấn quan trọng từ dòng Nyingma, còn có rất nhiều các giáo huấn của dòng Gelug mà đức Trulshik Rinpoche là bậc nắm giữ duy nhất cũng được truyền cho đức Đạt Lai Lạt Ma.

Trulshik Rinpoche đã dạy rất nhiều vị thầy vĩ đại khác. Ví dụ, ngài là một trong số các đạo sư của Đức Sakya Trizin; ngài truyền bộ pháp Rinchen Terdzo cho đức Pháp vương Gyalwang Drukpa ở tu viện Thubten Chöling; và ngài cũng truyền các tập giáo lý quan trọng cho Dilgo Khyentse Yangsi Rinpoche, Dudjom Yangsi Rinpoche và nhiều bậc trì giữ các dòng truyền thừa khác của Tây Tạngtu viện Shechen ở Nepal, bao gồm Dam-ngak Dzö, kinh điển dòng Nyingma và Nyingtik Yabzhi.

Ngài tiếp tục thúc đẩy sự bảo tồn và hoằng bá giáo lý và sự thực hành Phật pháp, ngài đi đến khắp nơi trên thế giới trong những năm cuối đời, và được các vị Lama của mọi truyền thống coi như là một hình mẫu của sự tham chiếu, sự nghiên cứu rộng lớn, tính trung thực, sự giản dị và trên tất thảy là những kinh nghiệm và sự chứng ngộ sâu sắc của ngài mà không ai có thể sánh nổi trong thời đại hiện nay.

Trulshik Rinpoche đi đến rất nhiều nơi ở châu Á, bao gồm Nhật Bản, Thái Lan và Malayxia, cũng như ngài đã đến Hoa Kỳ. Ngài đi thăm châu Âu rất nhiều lần, ngài đến Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh, Phần Lan và Hà Lan, và đặc biệt ngài đã từ bi chấp thuận lời mời đến thăm nước Pháp nhiều năm trước và coi sóc tất cả chúng tôi, ban các giáo huấn cho các đệ tử may mắn trong cuộc nhập thất ba năm nghiêm mật, song song với các cuộc nhập thất theo nhóm, và cộng đồng. Ngài đã hoàn thành sự trao truyền của Druptap Küntü cũng như là các quán đảnh từ terma được phát lộ bởi Kangyur Rinpoche, Dilgo Khyentse Rinpoche và Dudjom Rinpoche. Trong một lần, khi mà đang ban quán đảnh trong kho tàng của Kangyur Rinpoche, Trận mưa của sự gia trì (Tsikdun Ladrup), pháp tu mà ngài đã nhận được từ đức Dilgo Khyentse Rinpoche, ngài nhận thấy ngài đã nhận nó trực tiếp từ đức Kangyur Rinpoche – vì khi lần đầu tiên gặp Kangyur Rinpoche và nghe thấy giọng nói của ngài (ở Kalimpong, trong buổi giảng pháp về Kahma dòng Nyingma), ngài nói rằng ngài đã nhận được sự gia trì về thân, khẩu và ý, và tâm của các ngài đã tan hòa.

Bước sang tuổi tám mươi, Trulshik Rinpoche vẫn tiếp tục các hoạt động giác ngộ một cách không mệt mỏi để làm lợi lạc cho giáo Pháp và giúp đỡ tất cả chúng sinh có kết nối với ngài, với một năng lượng và lòng nhiệt thành không hề suy giảm. Trong những năm cuối đời, dù sức khỏe dần dần suy giảm, ngài tiếp tục ban các giáo huấn cho chúng đệ tử ở châu Á, châu Âu, và giành thời giantu viện Thubten Chöling để hướng dẫn một cộng đồng lớn tăng, ni và các hành giả nhập thất ở đó.

Ngài cũng đảm trách việc xây dựng tu viện mới, Dzarong Mindrol Thubten Dongak Choling ở trên Sitapaila, ngoại ô Kathmandu, tự mình tiến hành các buổi lễ quan trọng cùng với quá trình xây dựng, ví dụ như lễ ban phước cho đất hay là việc đặt các bình, hình ảnh, thần chú, linh phù (yantra) vào trong cột trụ và xà của ngôi chùa chính… Ngài thường dạy rằng, việc ngài xây tu viện này là để xua tan chướng ngại cho thế giới nói chung và đặc biệt cho dân chúng quanh vùng Hy Mã Lạp Sơnvì vậy, ngài chọn vị trí đặc biệt này, mà từ đó có thể nhìn thấy ba tháp quan trọng ở thung lũng Kathmandu, Swayambhūnāth, Namo Buddha, và Boudhanāth. Từ trên ngọn đồi mà tu viện có thể bao quát toàn cảnh thung lũng được gắn kết với Phật Vairocana, ngọn đồi gần đó ở Swayambhūnāth gắn liền với đức Vajrasattva, ngọn đồi của tu viện Tergar là đức Ratnasambhava, và ngọn đồi của đức Amitabha ở phía sau, ngọn đồi cao, đầy cây cối của ngài Long Thọ hướng về phía Bắc thì gắn liền với Amogasiddhi.

Cũng ở đó, phía bên trên tu viện, nơi ngài cư ngụ ở Phakmai Gatsal (khu vườn của đức Tara vĩ đại), cuối cùng, vào ngày 2 tháng 9 năm 2011, ngài đã thị tịch một cách an lành ở tuổi 87.

Bất kỳ ai có kết nối với bậc đạo sư vĩ đại này, dù đã gặp ngài hay chưa, sẽ được ngài hướng dẫn cho đến khi đạt giác ngộ. Vì vậy, việc quan trọng là phải cầu nguyện đến ngài, hòa tâm mình với tâm ngài. Các lời cầu nguyện hay thực hành chúng ta làm không phải vì Trulshik Rinpoche, chúng là vì chính chúng ta, cốt để chúng ta có thể tiếp tục nhận được lợi lạc từ các hoạt động giác ngộ của ngài. Trulshik Rinpoche là một đạo sư giác ngộ, ngài đã thị hiện xuống trái đất này để hướng dẫn chúng ta với lòng từ bi cho đến ngày chúng tathể không tách rời với tâm giác ngộ của ngài.

Trulshik Rinpoche luôn luôn nói rằng, các thực hành của ngài là theo đoạn thơ của ngài Santideva:

Hư không còn,

Chúng sinh còn,

Thì ta còn,

Để xua tan những khổ đau của thế giới này.

Chúng ta biết rằng đây là lời phát nguyện của Đức Trulshik Rinpoche, vì thế chúng ta tự tin ngài sẽ nhanh chóng trở lại tiếp tục các hoạt động giác ngộlợi lạc của chúng sinh.

 

Dựa trên bản tiểu sử của đức Trulshik Rinpoche viết bởi cháu ngài, cũng là thị giả chính, Kusho Ngawang Tsephel, bản tiểu sử này được chỉnh sửa lại bởi đức Jigme Khyentse Rinpoche và đức Pema Wangyal Rinpoche vào tháng chín năm 2011. Dịch và chỉnh sửa sang Anh ngữ bởi nhóm Padmakara.

Mọi công đức xin hồi hướng cho tất thảy hữu tình chúng sinh.

Mọi sai sót xin sám hối trước chư Phật cùng chư vị đạo sư.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3726)
Với những vị nhấn mạnh duy nhất vào việc trưởng dưỡng Bồ đề tâm trong cuộc đời, lời khuyên thích hợp cho họ khi tiến gần đến cái chết là nương tựa năm sức mạnh để định hướng lối đi của họ đến đời sau.
(Xem: 3913)
không phải là kết thúc của cuộc sống, bởi vẫn còn tái sinh sau khi chết.
(Xem: 3419)
Đừng bao giờ lo âu hay sợ hãi về cái chết. Thay vào đó, hãy cố gắng cải thiện tâm trạng và trưởng dưỡng một nhận thức hoan hỷ rõ ràng
(Xem: 4198)
Sống và chết đều vô cùng quan trọng với mọi người bởi chúng là số phận. Không ai có thể từ chối hay tránh khổ đau liên quan đến sinh, lão, bệnh, tử và cuộc sống thực sự.
(Xem: 4273)
Vài người nghĩ rằng Phật giáo Kim Cương thừa rất huyền bí. Điều này là bởi họ thiếu một sự hiểu về hệ thống tư tưởngthực hành của Kim Cương thừa.
(Xem: 2846)
Các hiện thân của tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tạivị lai; những thủ lĩnh phổ quát của đại dương đàn trànggia đình Phật;
(Xem: 3276)
Tất cả hữu tình chúng sinh trong tam giới của sự tồn tại đều trong tù ngục luân hồichúng ta đều trải qua khổ đau của luân hồi.
(Xem: 3380)
Về điều mà chúng ta sắp lắng nghe, Đức Phật đã ban vô số giáo lý. Nếu chúng ta muốn cô đọng những giáo lý này thì có những giáo lý của thừa căn bản và những giáo lý của thừa đặc biệt.
(Xem: 3295)
Trì Minh Vương hay Vidyadhara tối thắng Rigdzin Jigme Lingpa (1729-98) sinh ở Yoru, Tây Tạng trong một vùng vô cùng khiêm nhường.
(Xem: 3433)
Đèn Soi Nẻo Giác (A Lamp for the Path to Enlightenment), do ngài Atisha vĩ đại (Dipamkara Shrijnana) sáng tác tại Tây Tạng.
(Xem: 4399)
Ngày nọ, Đạo Sư đang an trụ trong sự chứng ngộ khi Ngài diện kiến Đức Kim Cương Tát Đỏa và thọ nhận lời tiên tri:
(Xem: 3448)
Ở Xứ Tuyết Tây Tạng, những giáo lý của Đức Phật được trao truyền trong nhiều dòng truyền thừa.
(Xem: 9605)
Có nhiều câu hỏi về tái sanh thường được nêu ra đối với các Phật tử. Có tái sanh không? Nếu có, có thể nhớ chuyện kiếp trước không? Cái gì tái sanh? Có thân trung ấm hay không?
(Xem: 7021)
Dưới đây là một bài giảng ngắn của Lạt-ma Denys Rinpoché, một nhà sư người Pháp. Ông sinh năm 1949, tu tập theo Phật giáo Tây Tạng từ lúc còn trẻ
(Xem: 7855)
Kyabje Lama Zopa Rinpoche giải thích cách phát khởi thực chứng về các giai đoạn của đường tu giác ngộ trong Khóa Tu Kopan Thứ Mười Hai...
(Xem: 9414)
hật giáo truyền nhập Tây tạng được xem như chính thức từ vua Srong-btsan sGam-po (569–649?/605–649 Tl?); nhưng phải đợi hơn một thế kỷ sau, dưới triều vua...
(Xem: 4504)
Kính lễ Đấng Trang Nghiêm Kim Cang Tát Đỏa. “Tất cả mọi pháp đều không có tự tánh. (Năm) uẩn (skandas), (mười tám) giới (dhatus)...
(Xem: 5193)
Kinh Đại Thừa Địa Tạng Thập Luân nói rằng, theo giáo lý của Đức Phật, có hai kiểu người không làm ác: kiểu đầu tiên là những người...
(Xem: 13459)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 11297)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11611)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10908)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 9334)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 13809)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 14965)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10531)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10656)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9910)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10008)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10191)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10519)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10613)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10532)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10114)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9832)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13547)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16323)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13479)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 9611)
Những lời khuyên thiết thực, thâm sâutrong sáng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, chỉ cho ta cách tu tập giúp biến cải tâm linh ta, biến ta thành một con người cao cả hơn...
(Xem: 10560)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 12366)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11889)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10757)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13344)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10002)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 12287)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 11755)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 12028)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14412)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 10964)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 15420)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17771)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15045)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16544)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 14648)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 14569)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18349)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 18511)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 12857)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13426)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant