Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Khyentse - Từ biTrí tuệ

09 Tháng Hai 201300:00(Xem: 15876)
Khyentse - Từ bi và Trí tuệ
KHYENTSE – TỪ BITRÍ TUỆ 
Dzongsar Khyentse Rinpoche
Tuệ Tạng dịch

 

dzongsar_jamyang_khyentse_rinpoche-01Sau lễ đăng ngôi của vị tulku của ngài Pháp vương Dilgo Khyentse Rinpohe ở Nepal, tháng 12 năm 1997, Đức Dzongsar Khyentse Rinpoche đã ban một bài Pháp thoại về ý nghĩa của từ “Khyentse.”

Trong Kim Cương thừa, ý tưởng về một Guru [Đạo sư] rất đặc biệt. Và rất nhiều người trong số chúng tađệ tử của Pháp vương Dilgo Khyentse Rinpoche, và đây là buổi lễ đăng ngôi của hóa thân ngài. Một cách ngắn gọn, mọi hóa thân Khyentse được xem là hóa thân của Đức Vimalamitra và Vua Trisong Deutsen.

Ngài Jamyang Khyentse Wangpo vĩ đại là một trong các bậc tiên phong quan trọng nhất trong Phật giáo nói chung và Kim Cương thừaTây Tạng nói riêng, không chỉ bởi ngài là một ông lớn với địa vị cao mà bởi sự chứng ngộ tâm linh của ngài. Cùng với Jamgon Kongtrul, Chogyur Lingpa và Jamyang Loter Wangpo, ngài thực sự đã bắt đầu phong trào Rime [Bất bộ phái]. Ngài không chỉ là một học giả, một vị thánh, mà còn được coi là một trong năm Đại Khai tạng mật vương. Ngài có năm hóa thân – [về] thân, khẩu, ý, phẩm tính và hoạt động. Và hóa thân về tâm là Pháp vương Dilgo Khyentse Rinpoche, người cũng có những phẩm tính tương tự như Jamyang Khyentse Wangpo vĩ đại.

 

Từ “khyentse” nghĩa là trí tuệtừ bi: Và với những ai đã gặp Đức Pháp vương Dilgo Khyentse Rinpoche, hóa thân trước kia, tôi chắc chắn bạn sẽ nhớ ngài là hiện thân về trí tuệtừ bi và ngài thực sự đại diện cho điều đó. Thật khó cho chúng ta, những kẻ ngu dốt, mặc dù có thể hiểu trí tuệtừ bi một cách máy móc, thực sự nhận ra tấm gương của trí tuệtừ bi này. Vô cùng hiếm có. Nhưng rất nhiều người trong số chúng ta đã có cơ hội gặp được hóa thân trước kia, và bây giờ chúng ta có cơ hội lớn lao gặp được bậc tái sinh của ngài, bởi các hành động nghiệp trong quá khứ. Và mặc dù tôi bị kéo vào buổi Pháp thoại này bởi Tulku Pema Wangyal, tôi đoán rằng mình nên coi bản thân là ai đó rất may mắn có được cơ hội tích lũy công đức bằng cách nói ra vài lời về Pháp.

Bởi vậy tôi quyết định rằng tôi sẽ nói vài lời về từ “khyen” và “tse” bởi vì chúng ta đều biết có rất nhiều các vị Khyentse và chúng ta cũng biết có rất nhiều quan niệm được gọi là trí tuệtừ bi. Bây giờ, như tôi đã nói, từ “khyen” liên quan đến trí tuệ hay sự hiểu biết. Ở đây chúng ta không nói về kiểu trí tuệ thông thường hay cách hiểu bình phàm. Trí tuệ ở đây là tâm biết được chân lý tối thượng của mọi hiện tượng. Tôi sẽ đưa ra vài ví dụ tại sao trí tuệ lại cần thiết, nhìn chung các vấn đề của chúng ta xảy ra bởi vì chúng ta không biết thứ gì đó. Sự hiểu lầm nhỏ bé của ta xảy đến khi chúng ta không thấu hiểu hoàn toàn. Chúng ta có rất nhiều nhầm lẫn. Chúng ta có kiểu ngu dốt này bởi vì các thói quen trong quá khứ.

Mặc dù một vài người có thể hiểu chút ít về trí tuệ, thật khó để có trí tuệ bởi vì trong Đạo Phật, khi chúng ta nói về trí tuệ, chúng ta đang nói đến trí tuệ giải thoát bản thân khỏi mọi vô minh. Và rất nhiều lần, những điều mà chúng ta cho là trí tuệ, trên thực tế không phải trí tuệ. Trong Đại thừa, trí tuệ là tâm hiểu được vô ngã hay tâm hiểu được khía cạnh trống rỗng của ngã. Nhưng mặc dù cũng dễ dàng để nghiên cứu điều đó, thực sự rất khó để trải nghiệm nó. Điều này là bởi sự bám chấp nhiều đời vào ngã.

Trong Đạo Phật, chúng ta nói về luân hồiniết bàn. Luân hồi là nơi có tất cả vô minh. Khi chúng ta nói về ngu dốt hay vô minh như là bám chấp vào ngã, chúng ta không nói đến một lỗi lầm thực sự tồn tại trong ta và rằng sau đó chúng ta phải tịnh hóa. Trên thực tế, mọi vô minh này, tất cả ngu dốt, đều không tồn tại. Nhưng bởi vì sự bất cẩn của ta, ta nghĩ chúng tồn tại. Chúng ta quá tham luyến với sự tồn tại của ngã và chúng ta bận rộn như là nô lệ của ngã. Nhưng như tôi đã nói nhiều lần, người ta có thể hiểu một cách không chính xác về trí tuệ thông qua nghiên cứu và thọ nhận giáo lý, nhưng để thực sự hiểu trí tuệ, họ cần rất nhiều công đức.

Điều này đúng với cả lòng sùng mộ. Khá dễ để hiểu lòng sùng mộ là gì, nhưng để có lòng sùng mộ, người ta cũng cần nhiều công đức. Một người không thể có lòng sùng mộ cho đến khi họ có công đức. Tôi nghĩ rằng không chỉ các phẩm tính giác ngộ, tâm linh như là trí tuệ, từ bi hay sùng mộ, mà thậm chí hạnh phúc đơn thuầnchúng tatrong đời sống hàng ngày cũng phụ thuộc vào công đức.

Ví dụ, … bây giờ tôi sẽ thoải mái một chút. Nếu ai đó như như người thông dịch của tôi nói với vị ni này, “Sư thật đẹp!,” nó phụ thuộc rất nhiều vào công đức mà vị ni này có. Nếu bà có công đức để có được một thời gian dù ngắn ngủi hạnh phúc, lời tán dương đó sẽ mang đến nhiều hạnh phúc. Nếu bà ấy không có hạnh phúc, lời đánh giá này của người thông dịch sẽ chỉ gây ra các vấn đề. Ví dụ như, nó có thể khơi lên sự mong chờ [nhưng] có thể anh ta [người thông dịch] chỉ lịch sự mà nói vậy. Nhưng bởi vì không có đủ công đức để hiểu lời đánh giá chính xác, vị ni có thể mong chờ và có thể theo anh ta đi bất cứ đâu! Và nếu anh ta là kiểu người kiên nhẫn hay khéo léo, nó có thể ổn thỏa. Nhưng tôi không nghĩ anh ta có thể nói rằng bà ấy đẹp mỗi ngày. Bởi vậy, công đức, Sonam trong tiếng Tạng, là một trong những phẩm tính quan trọng nhất, thực sự ảnh hưởng đến rất nhiều thứ. Tôi chắc rằng bạn đã trải qua trong cuộc đời một điều gì chắc chắn, khiến bạn không vui, và đó là bởi công đức.

Bạn có thể băn khoăn, “Làm sao người ta có được công đức?” Một cách kỳ lạ, để có được công đức, bạn cần có công đức. Công đức là nguồn gốc của công đức. Đây là phần khó khăn trong thực hành Đạo Phật. Một mặt, có một ý tưởng trọn vẹn về trí tuệ, vượt khỏi mọi quan niệm, vượt khỏi mọi tập khí. Nhưng để có được trí tuệ này, chúng ta nói về công đức đến cùng với những cảm xúc. Điều này cũng đúng với tánh không. Đó là thứ chúng ta phải chứng ngộ. Nhưng để chứng ngộ chúng ta cần công đức, như là hát hay và cúng dường lên bậc Đạo sư [điều mà những người bên ngoài đang làm] và như một vài người trong các bạn kiên nhẫncố gắng lắng nghe điều tôi nói và cùng lúc không bị xao lãng bởi những tiếng trống ngoài kia. Họ có thể tích lũy công đức theo cách này.

Có hai cách lớn để tích lũy công đức. Từ bi với hữu tình chúng sinh và sùng mộ với Phật, Pháp, Tăng và Đạo sư. Trên thực tế, chúng ta có thể cô đọng điều này thành một lòng từ bi bởi vì, khi chúng ta nói về Đại thừa, chúng ta nói đến lòng từ bi.

lòng từ bi như vậy cũng là sùng mộ trong Kim Cương thừa. Bởi vậy đây là khía cạnh của từ Khyentse, tsewa hay từ bi. Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên. Đó là từ bi. Nhưng với nhiều người trong số chúng ta thật khó để khởi lên từ bi. Có rất nhiều chướng ngại cho từ bi và những điều đối nghịch với nó, như là ích kỷ, bám chấp vào ngã lại rất mạnh mẽ. Và có rất nhiều thuận duyên cho bám chấp đó.

Tôi không thể nói về các bạn, mà nếu tôi nói về những kinh nghiệm của bản thân, thật khó để có lòng từ bi chân chính dù chỉ vài giây. Nhưng nếu tôi đọc giới nguyện, những lời cầu nguyện và khẩn nguyện Bồ đề tâm hay bất cứ thứ gì, và mặc dù tôi hiểu ý nghĩa, luôn ẩn đằng sau là sự ích kỷ. Bạn biết rằng, trong Kinh điển Đại thừa, có rất nhiều kiểu Bồ đề tâm khác nhau. Nhưng kiểu tối thượng nhất là bồ đề tâm, mong muốn giác ngộ cho tất thảy hữu tình chúng sinh, người mong muốn đạt đến giác ngộ sau khi tất thảy hữu tình đạt giác ngộ. Đó là kiểu bồ đề tâm rất khó chứng ngộ.

Tôi không biết liệu rằng bạn có như vậy không. Nhưng tôi thì có. Tôi không quan tâm nhiều đến người khác. Và tôi thường coi bản thân là tốt, thậm chí chỉ muốn đạt đến giác ngộ. Rất nhiều người thậm chí không muốn giác ngộ. Nhưng ít nhất tôi muốn giác ngộ. Mặc dù, chỉ với tôi! Nó cũng có thể xảy ra với bạn. Khi chúng ta cúng dường lên Phật, Pháp và Tăng, mặc dù chúng ta nói rằng điều này là vì hữu tình chúng sinh, tâm chúng ta luôn hướng đến một kết quả cho bản thân. Bởi vậy từ bi với hữu tình chúng sinh khá khó với tôi. Do đó tôi đoán đây là nguyên nhân tôi thích Kim Cương thừa, ở đó lòng sùng mộ được dạy là kiểu từ bi cao hơn.

Ít nhất là một người mới, một chúng sinh vô minh, khi bạn bắt đầu thực hành lòng sùng mộ, bạn có thể bắt đầu với một người như Đạo sư của bạn. Sẽ dễ hơn nhiều để ngưỡng mộ ai đó thay vì chịu trách nhiệm cho mọi người. Và tôi đoán tôi phải được tẩy não bởi mọi người như là ngài Jigme Lingpa. Tổ Jigme Lingpa nói rằng nhiều năm trì tụng thần chú và đọc các nghi quỹ cũng như làm lễ puja là rất tốt, nhưng không là gì so với một phút thiền định bởi thiền định hòa tâm chúng ta nhiều hơn. Sau đó ngài nói rằng nhiều năm thiền định không là gì với một giây nhớ đến Đạo sư. Và đây là lý do tôi nghĩ rằng thực hành lòng sùng mộ rất mạnh mẽ và tràn khắp.

Nhưng tôi hiểu rằng rất nhiều người gặp khó khăn với lòng sùng mộ. Với những người đã gặp các bậc đạo sư vĩ đại như Pháp vương Dilgo Khyentse Rinpoche (như chính tôi, đã may mắn gặp ngài), tôi đoán chúng ta ít khó khăn hơn trong việc có quan điểm linh thiêng này. Nhưng với những ai phải kết thúc với nhiều người như tôi, tôi hiểu tại sao lòng sùng mộ lại khó thế! Bởi vì trước hết ngày nay, bạn thậm chí không có sự tin tưởng nhiều vào Đạo sư.

Một lần nữa, tôi sẽ nói với bạn về vài trải nghiệm của tôi, nhưng tôi biết rất nhiều người ở đây là đệ tử Pháp lâu năm, bởi vậy bạn đã nghe những điều này nhiều lần. Tôi nói rằng, niềm tin tưởng trọn vẹn nơi Đạo sư là khá khó khăn. Ví dụ, gần đây khi tôi đang thực hành Đạo sư Du già [Guru Yoga], tôi thực hành Pháp này theo bản văn, quán tưởng Đạo sư phía trước mặt và nhiều điều khác, và lúc thỉnh cầu sự gia trì, cả gia trì thông thường và siêu việt, … Dĩ nhiên, với gia trì siêu việt, chúng ta thỉnh cầu sự giác ngộ, phát triển trí tuệ, xua tan ngu dốt, … Điều này là mục tiêu tối thượng của Đạo sư Du già. Và sau đó, để làm lợi lạc người khác, chúng ta cũng thỉnh cầu sự gia trì để họ có được sự trường thọ, không ốm đau và các gia trì thế tục khác.

Tôi nhận ra rằng tôi kiếm tìm sự gia trì xuất thế gian ít hơn nhiều so với thế gian. Tôi không thỉnh cầu thoát khỏi cái ngã nhiều như việc cầu mong trường thọ, thành công trong các đề án, và tương tự. Như thế, tôi nhận ra điều này – rằng tôi thực sự vẫn bám chấp vào cuộc đời tầm thường này. Trên thực tế, tôi sử dụng Đạo sư như một vị trời để thỉnh cầu ngài những món quà nhất định. Ngay khi tôi nhận ra đây không phải ý nghĩ vĩ đại, tôi nghĩ rằng việc nhận ra lỗi lầm đó cũng là sự gia trì của Đạo sư. Đôi lúc, khi tôi cố gắng nhận ra những lỗi lầm, từ đâu đó, kiêu mạn và ngã xuất hiện, nghĩ rằng, “Ồ, tôi đã nhận ra lỗi lầm, thật tốt!” Bởi vật mọi thứ tiếp tục như thế. Sau đó tôi lại đổ lỗi như thế, nói rằng, “Không, tôi không nên có kiểu ngã đó.”

Và sau đó một ngày … Bạn thấy, tôi đang thích thú trong việc viết các kịch bản và làm phim. Và một ngày, tôi thấy mình đang cầu nguyện Đạo sư, “Xin hãy gia trì để con viết được kịch bản hay, để dự án phim thành công.” Sau đó ngay lập tức tôi nghĩ, “Không, Pháp vương Dilgo Khyentse Rinpoche thậm chí không biết làm phim. Làm sao tôi có thể thỉnh cầu ngài như thế?” Lúc đó, tôi đang đọc tiểu sử của ngài Jamyang Khyentse Wangpo và Khyentse Chokyi Lodro. Và trong đó, các ngài đề cập nhiều đến lòng sùng mộ của ngài giành cho Đạo sư và thứ các ngài tìm kiếm từ bậc thầy như sự gia trìgiác ngộ, lợi ích cho hữu tình chúng sinh, đầy đủ các phẩm tính giác ngộ. Tôi thấy xấu hổ khi thỉnh cầu những thứ tầm thường như vậy. Nhưng sau đó bởi vì tôi đọc đủ sách Phật giáo, tôi có thể mang lại tất cả điều này… Tâm tôi, ngã của tôi, sự ích kỷ của tôi thông minh đến mức nó khéo léo nói ra những lời hối lỗi tốt lành. Kế đó, tôi nghĩ tôi có thể thỉnh cầu gia trì để viết kịch bản hay cho hữu tình chúng sinh!

Một lần nữa tôi tự nói với bản thân rằng, “Không. Bây giờ điều mình đang làm thực sự giúp đỡ cho ngã và sự ích kỷ, sử dụng mọi kiểu sám hối của Đại thừa.” Dẫu sao, quay trở lại với khi tôi khẩn cầu ngài, để ngài gia trì cho những bộ phim của tôi … Sau đó tôi nghĩ, “Không, không, ngài không biết viết kịch bản. Ngài không biết sử dụng máy quay. Ngài chẳng biết dùng mấy thứ đồ đó.” Và sau đó tôi nhận ra rằng, “Hãy xem này, tôi đang không tin tưởng ngài. Ngài là Phật. Ngài biết mọi thứ. Tôi đã coi ngài là người không biết một thứ đơn giản, tầm thường như là dùng máy quay, thứ chỉ cần hai ngày hay một tuần để học.” Và điều này cho thấy tôi vẫn phải phát triển lòng sùng mộ, phát triển sự tin tưởng.

Sau đó tôi cố gắng chắc chắn rằng tôi giành nhiều thời gian để cầu nguyện và khẩn nguyện hơn, để ngài gia trì cho trí tuệ của tôi phát triển và mọi phẩm tính giác ngộ tăng trưởng. Và tôi có thểm một chút niềm tin, bởi vậy những ngày này, tôi không thấy xấu hổ khi thỉnh cầu sự gia trì cho thứ gì, như là viết các kịch bản thành công. Tôi nghĩ nó ổn.

Đây là điều tôi đang cố gắng nói với các bạn. Chúng tavấn đề là không tập trung vào một điểm, như Đạo sư như một vị thầy, nhưng nếu bạn muốn trường thọ và bạn tình cờ biết Phật Amitayus, Phật trường thọ, thì bạn sẽ thỉnh cầu sự gia trì từ ngài. Hoặc nếu bạn muốn tăng trưởng trí tuệ, thì bạn thỉnh cầu sự gia trì từ ngài Văn Thù. Mọi thứ như thế. Điều này cũng cho thấy chúng ta thiếu đi sự hiểu rằng Đạo sưhiện thân của mọi đối tượng quy y. Điều này cho thấy chúng ta vẫn còn rất nhiều tâm nhị nguyên. Chừng nào chúng ta còn sự yếu kém này, chúng ta sẽ không thể có lòng dũng cảm để đạt được trí tuệ.

Chúng ta gọi những người có bồ đề tâmBồ Tát. Và tên gọi Bồ Tát có ý ám chỉ đến người dũng cảm, không chỉ dũng cảm giúp đỡ hữu tình chúng sinh, mà dũng cảm đối mặt với chân lý, dũng cảm đối mặt với mặt ảo mộng của cuộc đời. Bởi vậy để có khyen hay trí tuệ, chúng ta cần có từ bi. Và không có từ bi, người ta không có trí tuệ. Con đường nhanh nhất để có hai sự chứng ngộ này, Khyentse hay trí tuệtừ bi, tôi nghĩ, là nhờ sùng mộ, tinh túy của từ bi. Bởi vậy theo cách này, lòng sùng mộ có rất nhiều cấp độ. Chúng ta bắt đầu lòng sùng mộ đơn giản từ các cảm xúc như kính ngưỡng và khát khao. Và cuối cùng khi chúng ta có thể phát triển lòng sùng mộ này, lòng sùng mộ của chúng ta trở thành trí tuệ. Khi đó chúng ta không sợ hãi việc phải phụ thuộc vào ai đó mọi lúc. Bạn biết rằng, phụ thuộc vào ai đó là điều rất lạ. Tâm chúng ta muốn phụ thuộc lúc này, nhưng lúc khác, việc đó lại trở thành phiền hà lớn. Tôi nghĩ rằng đó là tất cả.

Nguồn: http://www.siddharthasintent.org/gentle/GVMay98.htm

Việt dịch: Tuệ Tạng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 274)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(Xem: 276)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng –
(Xem: 377)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(Xem: 752)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(Xem: 736)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(Xem: 850)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(Xem: 821)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(Xem: 1122)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(Xem: 1346)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 1137)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(Xem: 2436)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(Xem: 1834)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(Xem: 3530)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(Xem: 1661)
Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một.
(Xem: 2599)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(Xem: 2367)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(Xem: 2020)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(Xem: 2976)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(Xem: 2064)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(Xem: 2396)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(Xem: 1823)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(Xem: 1713)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(Xem: 2451)
Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok.
(Xem: 1527)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(Xem: 2827)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(Xem: 1875)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(Xem: 3807)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(Xem: 2131)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(Xem: 1971)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(Xem: 2523)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(Xem: 4501)
Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1].
(Xem: 1933)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(Xem: 2829)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(Xem: 1657)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(Xem: 2558)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2646)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2041)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3624)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(Xem: 3082)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(Xem: 2009)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(Xem: 2056)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(Xem: 2383)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(Xem: 2080)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(Xem: 1922)
Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche
(Xem: 2464)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(Xem: 2139)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(Xem: 2164)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(Xem: 2579)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(Xem: 3660)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(Xem: 2232)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(Xem: 3335)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(Xem: 3008)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(Xem: 5279)
Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.
(Xem: 2626)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(Xem: 3913)
Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.
(Xem: 5330)
Hôm nay, chúng ta đều đã đến Vườn Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, Ấn Độ, vùng đất của chư Thánh giả, nơi đã được cúng dường lên Đức Phật.
(Xem: 3867)
Điều đầu tiên mà bạn cần hiểu là mọi hữu tình chúng sinh đang sống trên thế giới này – ‘hữu tình chúng sinh của tam giới của sự tồn tại’ – là một sản phẩm của tâm.
(Xem: 2789)
Khi chúng ta nhìn vào hiện tượng vật chất trong thế giới này, chúng ta thấy rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của nó.
(Xem: 2521)
Guru Rinpoche chào đời tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài sách tấn các đệ tử hãy hoan hỷ bởi Ngài sẽ trở lại là Guru Rinpoche.
(Xem: 2735)
Gần đây, nhiều người hỏi về Khandro Rinpoche tôn quý và những hoạt động tâm linh của Bà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant