Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Solukhumbu du ký

16 Tháng Hai 201300:00(Xem: 14942)
Solukhumbu du ký

Khởi hành

Trong đoàn có cả người Thái Nguyên, Thanh Hóa, Đà Lạt, người Hoa, một kịch tác gia, một NSƯT điện ảnh, một diễn viên hải ngoại là người công giáo nhưng ngưỡng mộ đất Phật nên hành hương cùng đoàn, có nhiều nhóm là cả gia đình, còn lại là dân Sài Gòn và Hà Nội, đủ cỡ tuổi tác, ngành nghề, đẳng cấp khác nhau. Người có kinh nghiệm nhiều nhất về lãnh thổ Nepal là thầy Thích Trí Không nên “ưu tiên” được làm “hoa tiêu”. 

Khoảng 18 giờ ngày 15/8/2012, hơn 2 chục người chúng tôi lần lượt có mặt tại ga hàng không Tân Sơn Nhất làm thủ tục bay. Khi quá cảnh một đêm tại sân bay Thái Lan thì có thêm hơn 20 người nữa ở Hà Nội vào trong đó có một tốp vừa đi Tây Tạng về đã cùng chúng tôi bay tới Nepal, tổng cộng đoàn có 55 người.

Tới Katmandu sau khi nghỉ ngơi, ngay chiều hôm đó chúng tôi đi nhiễu Đại bảo tháp Bouddhanath. Sáng hôm sau, thầy Trí Không đưa chúng tôi đi thăm ngôi nhà của Thánh Trulshik và Tu viện của Ngài Dudjom Rinpoche ở Tusal, đến trưa thì được diện kiến Ngài Tulku Pema Wangyal Rinpoche và Ngài Jigme Khyentse Rinpoche ở khách sạn Hyatt, buổi chiều cùng ngày đến thăm Ngài Sodnam Jorphel Rinpoche tại nhà riêng có tên là Dharmaraja Foundation. Nhờ công đức tu học của thầy Trí Không mà ngày đầu ở Nepal thầy đã kết nối chúng tôi được diện kiến 3 vị Rinpoche tại Katmandu.

Sáng 18/8, khởi hành đến vùng núi Solukhumbu, đoàn 55 người phải chia ra 2 đợt mới bay hết. Đặc biệt tại sân bay này có các hãng Hàng không: Buddha, Tara, Mandala… dù khách là tôn giáo nào đến sân bay này đều bay trên các Hãng mang danh hiệu của Phật. Chúng tôi bay trên chiếc 9N – AEV của hãng Tara Air, cưỡi trên mây nhìn xuống “hạ giới” thấy ruộng xanh, suối uốn ngoằn ngoèo, những ruộng bậc thang như vân tay người, vạn vật đẹp lộng lẫy như gấm. Khi hạ cánh xuống Phaplu là mặt trời đứng bóng, đồi núi xanh ngát gối đầu nhau bao quanh sân bay, núi sát mây, mây liền trời. Giữa trưa ngày đầu mùa thuánh nắng vàng đặc sánh như mật ong tô rõ nét các triền núi xanh đậm hơn. Phaplu nằm trong vùng núi Solukhumbu, phía nam của đỉnh Enverest gần biên giới Tây Tạng, lần đầu tiên đứng giữa không khí loãng trên độ cao gần 4 ngàn mét của dẫy Hy Mã Lạp Sơn này cảm giác người hỗng nhẹ khiến ai nấy yên lặng để cảm nhận không gian kỳ lạ. Tuy nắng dịu nhưng tia cực tím rất mạnh, nếu không che nắng kỹ thì sẽ nám da, mấy ngày sau sẽ tróc da từng mảng. Trong khi chờ trực thăng để bay tiếp lên Tu viện Thubten Choling, chúng tôi ới nhau ra chụp hình, với những ai lần đầu tới đây thì coi là giây phút, là hình ảnh cần phải lưu lại suốt cuộc đời. Nếu tới Katmandu được coi là đất Phật thì đến được Phaplu coi như đã chạm được vào cánh cửa cõi Chư Thiên.

Từ Phaplu nếu lội bộ lên Tu viện khoảng 10 tiếng đồng hồ lại cồng kềnh hành lý nên cả đoàn rủ nhau… bay. Phải 10 chuyến trực thăng mới tải hết 55 người, đám thanh niên phải bay trước để đón các “ama” bay lên sau. Tới sân bay của Tu viện Thubten đã có thầy Thắng đang tu học trên đây, một thầy tu người Châu Âu và vài tu sĩ cùng nhóm Phật tử trai tráng khuôn vác hành lý của những phụ nữ liễu yếu và của các “bô lão” chân mềm vai gầy. Tốp người thứ hai chúng tôi gặp là các Ni vừa đi chợ về, mỗi người gửi đến vài chục ký rau, củ, quả, các Ni chào chúng tôi với nụ cười hiền như thánh nữ.

Mặc dù thầy Trí Không dặn mang chăn hoặc túi ngủ, áo ấm, nhưng trong phòng nghỉ đã có sẵn chăn len xù của Hàn Quốc ấm ơi là ấm. Phòng nam riêng, phòng nữ riêng, nhưng bên nam thỉnh thoảng vẫn nhảy dù sang bên nữ “tán dóc”. Trong đoàn có 3 tuổi teen đều có tên là “Anh”: Nam Anh, Phan Anh, Quang Anh, “nhóc” Nam Anh là “chuyên gia” chụp ảnh trộm những ai ngủ gật ở sân bay kể cả trong phòng ngủ ở trên núi. Người thì nằm co hình chữ S trên ghế, ông thì nằm hình chữ Y trong phòng, người thì ngủ giơ 2 tay kiểu “tôi xin hàng”, có người cổ ngoẹo một bên miệng há như chờ sung rụng, ai xem cũng cười ngặt nghẽo, thầy Trí Không cười thành tiếng. Cái trò “siêu quậy” của cậu bé ai nấy vui quá là vui.

Buổi tối, cả 2 phòng trước khi ngủ từng nhóm nằm cạnh nhau là “15 phút thời sự” chuyện trên trời dưới đất, từng chuỗi cười râm ran tới khuya, khi chìm sâu vào giấc ngủ là dàn giao hưởng được xướng lên bằng mũi đủ bè trầm bổng tràn ngập căn phòng. Sáng dậy người này nói nghe tiếng ngáy của người kia nhưng lại không biết chính mình cũng ngáy không thua ai. 

Ăn trên Tu viện Thubten Choling

Bếp ở dưới tầng hầm của Tu viện, có đến trên 20 tu sĩ phục vụ trong bếp. Nơi ăn ở cái sân rộng trước cổng Tu viện được che bạt, đĩa cơm chay đầu tiên đã nhập vào trong cơ thể mỗi người nhiều thi vị từ thực phẩm đến tình cảm của nhà bếp dành cho Phật tử Việt Nam như đón những người con cưng từ xa trở về. Các Tăng, các Ni làm bếp thông qua thầy Thắng và cô Bảo Hương (đang học tại Tu viện) cũng ra phụ bếp biết được khẩu vị của chúng tôi nên bữa ăn hợp khẩu vị hơn. Những món ăn được nấu từ những thực phẩm giá trị dinh dưỡng của vùng núi Solukhumbu giàu chất vitamin A cung cấp folate, chất xơ, canxi, lutin, kẽm như khoai tây, cà rốt, rau cải xanh có khả năng giúp sáng mắt. Ngoài ra còn có bột đại mạch (bột tsampa) chứa rất nhiều canxi, phot pho và magiê cần thiết cho sự phát triển xương. Bữa nào cũng vậy, khi chúng tôi ăn gần xong lại được các Tăng – Ni mang giỏ táo, lê, bánh, kẹo ra mời, loại táo của vùng núi Solukhumbu nhỏ nhưng ngọt đậm, và những loại trái cây có chứa chất cacbonhydrat, vitamin C, kẽm, folate, chất xơ, có khả năng bảo vệ tế bào cùng với nụ cười luôn tươi trên gương mặt vất vả bếp núc của các Tăng, các Ni. Người viết bài này nói nhỏ với thầy Thắng “văn hóa phục vụ hơn cả nhà hàng 5 sao”. “5 sao” không phải phương tiện phục vụ mà ở tâm từ bi của các vị tu sĩ làm bếp đã tạo thêm tình cảm mật thiếttăng trưởng các giá trị văn hóa về tâm linh trong chúng tôi.

Đàn Quạ

Tháng 8 ở Việt Nam là mùa mưa, ở đây cũng vậy. Mây mưa xà thấp ngay trên đầu, cảm giác như mình sẽ hòa lẫn trong mây. Khi mưa tạnh mây quang, gió mọng nước mát lạnh phả vào mặt, dưới thung lũng hiện lên những làn hơi nước uốn khúc ôm ngang sườn đồi như rồng mây. Mây ở vùng núi này thật kỳ lạ, từng giải mây nhỏ như rồng bay từng đàn, có lúc giống các Chư Thiên cưỡi sư tử hoặc cưỡi rồng trên không, khiến chân tôi nhiều lần dừng chân lưu rất lâu hình ảnh này vào ký ức.

Chưa bao giờ thấy ở đâu nhiều quạ như trên vùng núi này, nơi không ai sát hại, không làm tổn thương hoặc làm chúng hoảng sợ bao giờ. Được sống yên ổn trên vùng đất Thánh nên tháng tháng, năm năm trôi qua, quạ cứ nhân số lên. Ánh nắng đầu tiên trong ngày đã nghe tiếng khàn khàn “quà quà” như giọng ngái ngủ của chúng gọi gia đình, họ hàng của chúng ngóc đầu dạy đón mặt trời. Những tán cây, những cành cao, trên các mái nhà đều có quạ, chúng nghếch cái đầu thách thức với cái lạnh 12oC của ban mai. Không biết tự bao giờ, quanh Tu viện đã trở thành “vương quốc” chủng tộc quạ, suốt ngày bầy đàn từ thế hệ này đến thế hệ khác chỉ một chuỗi giọng đơn điệu “quà quạ” như điệp khúc tẻ nhạt tồn tại trên cao xanh, những âm giọng này lại chính là thông điệp an bình, thông điệp hạnh phúc của sự sống, là được nương tựa lòng từ ái mà những vùng đất của người phàm chỉ biết tiêu diệt mà không đủ lòng từ để bảo vệ chúng. Do vậy, tiếng quạ người ta gọi là “kêu”, nhưng riêng chúng là tiếng hót, hàng ngày hót, kiếm mồi và nghe tụng kinh. Nhớ câu chuyện nói về “sự nghe” của một con sáo trong kinh điển Phật Pháp. Có con sáo hàng ngày nghe được sư thầy tụng kinh, trước khi thọ mãn nó báo mộng cho sư thầy, nói: “Thầy ơi, con tái sanh trong một gia đình ở dưới chân núi thầy hãy tìm con, nhận con theo tu học với thầy”. Sau đó thầy được biết con sáo thường đậu trên cây bên ngoài nghe thầy tụng kinh, nhờ đó mà con sáo có được năng lực và được phước báo. Cho nên với họ hàng nhà quạ cuộc sống ở đây trở thành vô giá với chúng.

Lễ giỗ 

Thánh Kyabje Trulshik Rinpoche đã dạy rất nhiều vị thầy, trong đó có Dalai Latma 14. Ngài là một trong số các đạo sư của Đức Sakya Trizin, Ngài đã truyền bộ pháp Rinchen Terdzo cho đức Pháp vương Gyalwang Drukpa ở tu viện Thubten Chöling và truyền các tập giáo lý quan trọng cho Dilgo Khyentse Yangsi Rinpoche, Dudjom Yangsi Rinpoche và nhiều bậc trì giữ các dòng truyền thừa khác của Tây Tạngtu viện Shechen ở Nepal, bao gồm Damngak Dzö, kinh điển của dòng Nyingma và Nyingtik Yabzhi. Song song với việc xây dựng Tu viện mới Dzarong Mindrol Thubten Dongak Choling ở trên Sitapaila, ngoại ô thủ đô Kathmandu.

Lễ cầu nguyện giỗ 1 năm Thánh Kyabje Trulshik Rinpoche mỗi ngày 3 thời liên tục nhiều ngày tại Tu viện Thubten Chöling. Khi chúng tôi có mặt tại Tu viện thấy lễ cầu nguyện đã diễn ra trước đó không rõ là mấy ngày. Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành, quỳ trước linh ảnh của Thánh lòng con không thổn thức nhưng nước mắt vẫn tuôn trào, con muốn quỳ mãi trước Ngài như người con bị lưu lạc nhiều năm chốn vô minh nay mới biết tìm về đất tổ. Gần một đời người nặng vì đạo niệm cao khiết, nay quỳ trước bậc đức hạnh của Thánh, xin Ngài hãy gia trì cho chúng con được nương thuyền trí tuệ để tu tập, chú tâm vào chánh Pháp và đi mãi trên con đường lành của Đức Phật”.

Hôm sau Tu viện đón thêm 4 vị Thánh Tăng cao cấp, trong đó có Ngài Dudjom Yangsi Rinpoche, Ngài Tulku Pema Wangyal Rinpoche, Ngài Jigme Khyentse Rinpoche… Để báo tin các Ngài đã xuống sân bay của Tu viện, trực thăng lượn 1 vòng, các tu sĩ đứng dọc hai hàng dài trên tay nâng khăn khata chờ các Ngài đi ngang qua ban phước. Trên nóc Tu viện hai vị Larma với 2 cây kèn Tongqin dài 5 mét dóng lên những tiếng âm thanh kỳ vĩ nhân lên cảm xúc của gần một ngàn tu sĩPhật tử trong và ngoài nước có mặt tại đây. Nhiều người không nén được cảm xúc mừng Thánh ân như đón những người cha trở về mái nhà thiêng khóc sướt mướt. Chiều hôm đó, hào quang cầu vồng rực rỡ ngự trên sườn núi sát Tu việnthời lượng khoảng 20 phút, mọi người đều mang máy ảnh, điện thoại ra lưu giữ ánh hào quang báo thân của Thánh.

Trong những buổi lễ, qua từng bài kinh trì niệm trỗi dậy âm thanh hùng mạnh nhạc lễ Phật giáo hoành tráng, tôn nghiêm thỉnh mời hoặc tiễn đưa các Chư Phật, Chư vị Bồ Tát. Không phải tiếng gió thổi từ biển, không phải âm vực tâm linh vọng về, những chủng âm từ kèn Tongqin trung (loại kèn không có lỗ bấm điều tiết giai điệu, âm thanh lớn hơn kèn tây tompet), ốc loa, trống Chod, trống damaru, tiếng xập xõa cổ xưa… tiết tấu lúc nhanh, lúc đều đều như nhịp đập trái tim của thần núi, rền vang như sấm từ trên cao dội xuống khắp 10 phương trời đánh thức núi rừng, như thác từ nguồn dội về, như gió thiêng từ bốn bề vũ trụ, hòa tan rồi nhập lại thấm sâu vào lòng đất. Tiếng cầu nguyện trầm hùng như phát ra từ gió, nước và lửa, vùi đi những trầm luân của trần ai, chuyển tải nhiều tầng ngôn ngữ của thân – khẩu – ý được hợp nhất từ âm nhạc diễn tả năng lực từ bi tạc vào cao sơn từng chuỗi ngôn ngữ âm thanh chánh giác của giáo lý Phật giáo, là thông điệp chiến thắng trầm luân giữa vùng Solukhumbu linh thiêng và hùng vĩ.

Suốt 5 ngày dự lễ có nhiều Phật tử địa phương cúng dường Chư Phật và cho Pháp hội, các vị Thánh Tăng cao cấp, Phật tử các nước và Phật tử Việt Nam đều được hưởng lộc này và kinh Pháp dòng Mindroling bình đẳng như nhau. Ngày lễ cuối, hàng ngàn Phật tử vùng của Solukhumbu, Katmandu và các vùng lân cận lên xếp hàng rồng rắn ngoằn ngoèo đảnh lễ linh ảnh của Thánh Trulshik và đảnh lễ các vị Rinpoche suốt buổi chiều mới hết rồi họ lại lặng lẽ ra xuống núi. Tuy là những người dân chân chất nhưng không ồn ào, không chen lấn, thể hiện lực tu tiến rất văn hóa, dường như tham – sân – si đã được tịnh hoá khỏi thân tâm họ. Đó là điều đáng làm cho Phật tử Việt Nam phải học hỏi từ họ. Tối cùng ngày, Ngài Tulku Pema Wangyal Rinpoche đã có bài giảng Pháptruyền khẩu thần chú 12 vị Phật cho các Tu sĩPhật tử nước ngoài và Việt Nam.

Tối 19/8, Ngài Jigme Khyentse Rinpoche đã giảng Pháp cho các tu sĩPhật tử: “Trong 48 vạn Pháp môn của Đức PhậtPháp môn Tứ Diệu Đế nói đầu tiên cách tu về cái khổ. Chẳng ai làm cho mình khổ cả, mình tham – sân – si tưởng rằng mình sẽ được hạnh phúc thực ra là hàng ngày mình đối diện với nó là đối diện với cái khổ. Vì vậy, làm sao tu cho bớt khổ?…” Đúng vậy, đời người vấp bao nhiêu chướng ngại là bấy nhiêu thất vọng, nhờ con thuyền trở đầy tình thương của Đức Phật để mà biết tu, mà buông xả, mà biết phát tâm từ bi với chúng sanh, đó là cách tốt nhất báo đáp Thánh Ân của các Ngài. Hôm sau Ngài Jigme Khyentse Rinpoche còn cho chúng tôi xem 10 báu vật của Đức Phật và nghe Ngài giảng chi tiết lai lịch từng phần một. Nhưng tôi không được phép tiết lộ trên bài viết này.

Sáng 20/8 chúng tôi được lên thăm Thánh tích của Ngài Trulshick Rinpoche nhập thất trên một ngọn núi cao chót vót sát với Tu viện. Ngài là bậc thầy của Dalai Latma và của nhiều vị bậc thầy khác. Ngài đã dành cả cuộc đời không chỉ tu hành mà còn nghiên cứuthực hành tất cả các giáo huấn và trao truyền các Pháp tu quan trọng cho các đệ tử cao cấp của mình. Ngài đã giành khoảng 60 năm trong cuộc đời để nhập thất. Việc leo núi lên thăm Thánh tích là không thể thiếu trong chuyến hành hương này. Các bô lão có cặp giò “èo uột” đi trước, có người hỏi thầy Trí Không “đi có xa không?” Thầy nói “chỉ chút xíu là tới nơi”, ai dè leo đường núi dốc quanh co, chênh vênh, hun hút cả tiếng đồng hồ, miệng mũi tranh nhau thở, tôi còn bị vắt hỏi thăm “gầm” lên inh ỏi. Bù lại, dọc 2 bên đường rất nhiều hoa núi, đám “teen” thỉnh thoảng dừng chân nheo mắt chĩa ông nhòm không bỏ lỡ nét đẹp hoang dã của vùng núi Solukhumbu. Lên tới nơi mới thấy mình có phước lớn được đến nơi Thánh đã nhập thất ở căn nhà nhỏ này. Cách đó không xa là ngọn núi đá có những vỉa nhô ra như ô văng mái hiên, chắc Ngài thường tọa thiền tại đây, trên mặt vách đá còn in dấu tay của Ngài, các Phật tử đã dâng khăn khata và đặt tay lên dấu Thánh tích. Đây chính là chốn vắng anh linh này Thánh Trulshik đã chọn là nơi tu hànhxây dựng Tu viện Thubten Chöling. Lối mòn sườn núi này đã in dấu chân Thánh biết bao lần qua nơi đây. Khi xuống núi, đi giữa thinh không, tôi nhớ đến lời của Ngài Jigme Khyentse Rinpoche hôm giảng Pháp: “… Các con không phải đang ngồi trong Tu viện mà đang ở cõi Chư Thiên rồi”. Tôi hiểu cõi Chư Thiên chẳng ở đâu xa hay trong quán tưởng. Các Chư Phật, các vị Bồ tát trước kia cũng là con người, do trình độ giác ngộ thực hành Thập thiện mà được phước báo đạt quả vị. Còn chúng tôi chỉ tu tại gia giữ được 5 giới còn khó, hôm nay có phước duyên lên đất Thánh thì đây là cõi Chư Thiên quả là không sai”. Trulshik Rinpoche không những là một vị Thánh, Ngài còn là một nhà thám hiểm tài ba dày công phát hiện ra vùng núi Sulokhumlu này, nhiều năm tu hành nơi đây Ngài phải trải qua không ít trắc trở, khó khăn về ăn, ở, sinh hoạt, để rồi ngày nay cùng các đệ tử tạo nên cõi Chư Thiên này.

Tối 22/8 trước khi về Katmandu, thầy Trí Không đưa chúng tôi lên thăm Ngài thị giả của Thánh Trulshik, được Ngài ban phước, khăn khata, thuốc Thánh và Linh phù Cát tường. Sáng hôm sau, hai Ngài thị giả của Thánh Trulshik xuống tận sân bay trực thăng của Tu viện để chia tay Phật tử Việt Nam. Con ngựa bạch của Thánh Trulshick cũng lẳng lặng xuống tận đây ngó theo lưu luyến, cảm giác như hình bóng Ngài vẫn trên yên ngựa dõi ánh mắt thánh hiền với chúng sinh. Ngài đã linh ứng bảo vệ cho chúng tôi trong các chuyến bay trong mùa mưa to, gió lớn này được an toàn. Nhớ hôm trước giờ bay từ Katmandu lên đây trời mưa ào ào, khi chúng tôi chuẩn bị ra sân bay trời lại quang, gió lại ngừng. Trong suốt mấy ngày lễ mưa ròng rã, trước ngày về mưa suốt đêm, ai nấy nghĩ rằng có thể trực thăng không thể bay trong điều kiện mưa như thác đổ như vậy, nhưng đến 7 giờ thì nắng như dát vàng trải đều trên Tu viện Thubten Chöling cả vùng núi Solukhumbu khô ráo như chưa từng có trận mưa nào, bừng sáng như ánh hào quang của cõi Chư Thiên nguy nga. Có lẽ đây chính là quyền năng vô song ý nghĩa tâm linh huyền bí sâu xa này đã khiến cả thế giới muốn tìm hiểu.

Katmandu

Hầu hết các khách sạn ở đây sự dụng điện từ năng lượng mặt trời. Bước ra khỏi nơi nghỉ của chúng tôi chừng chục mét là đã trực diện với đôi mắt đầy minh triết Uy – Bi – Trí của Đức Văn Thù trên bảo tháp Boudhanath, bốn phía Bảo tháp đều có mắt Phật và mắt thứ 3 tượng trưng thông nhãn siêu việt. Đây chính là công trình văn hoá Phật giáo giá trị nhất của Nepal, ai đã đến bảo tháp việc đầu tiên là nhiễu quanh Tháp. Ngày đầu những người mới nhiễu tháp 3 vòng là mỏi gối, ngày sau quen dần tăng số vòng nhiễu tháp lên 7, 9 rồi 13. Mấy cô gái Hà Nội cùng đoàn chúng tôi còn đã phi thường nhiễu tháp từ 19 giờ đến 23 giờ được 100 vòng. Cái lần nhiễu tháp được 13 vòng, lúc ấy mệt muốn hụt hơi chỉ cần ai dí ngón tay ẩy nhẹ một cái là tôi loạng choạng lăn ra. 

Thầy Thích Trí Không lại đưa chúng tôi lên Tu viện Drikung Rinchen của Ngài Sodnam Jorphel Rinpoche ở Palri. Ngài rất vui, mang trái cây, bánh kẹo, nước hoa quả, pha trà cho chúng tôi. Sau khi ban phước, Ngài lại cho thuốc Pháp. Mấy ngày kế đó thầy Trí Không đã đưa chúng tôi đi thăm tiếp nhiều Thánh tích Phật giáo khác. Mỗi điểm đến, như được tiếp thu thêm năng lực của các Chư Bồ Tát, hiểu thêm về văn hóa tu của người bản địa. Những kiến trúc cổ từ đền đài đến nhà ở tại các địa phương đều mang dấu ấn kiến trúc của Tây tạng, khắc sâu trong tâm thức hơn cả là những nơi có tượng của Phật, như lên đỉnh núi Phamthings và thăm động Asura, động này có từ thế kỷ thứ VIII, trong động Asura có tượng của Đức Liên Hoa Sanh, bên ngoài có dấu tay của Ngài để lại trên vách đá. Theo sử chép lại, Đức Liên Hoa Sanh trên đường từ Ấn Độ qua Tây Tạng đã dừng lại tu tập nơi đây và thành tựu pháp tu Kim Cương Tát Đỏa. Cũng trong khu Phamthings có tượng Đức Quan Âm Tara tự sanh, đền Yanglesho là nơi Đức Liên Hoa Sanh thành tựu pháp Dorje Phurba. Thăm một tuyệt tác điêu khắc trên đá mà dân địa phương vẫn coi là bức tượng Đức Quan Âm tự hiện được 9 thần rắn nâng đỡ nổi trên mặt nước.

Chúng tôi may mắn hành hương cùng một vị Tăng trẻ là thầy Trí Không, thầy đã dành nhiều thời gian trong tuổi trẻ của mình để tu học và là một vị Tăng đầu tiên của Việt Nam tu học Mật giáo ở Nepal và Tây Tạng. Cho nên những người trong đoàn nói nhỏ với nhau được hành hương cùng thầy là một sự may mắn, đó là lý do đoàn đi đông người như vậy. Thầy như con thoi không nề hà việc gì, lăn xả vào tất cả những việc từ nhẹ đến nặng, việc khó, luôn vui vẻ, thông minh cởi mở và chân tình. Trong đoàn ai cũng đánh giá cao lòng từ, giới nguyện, giới đức của thầy, lớp trẻ thì kính quý, lớp bô lão thì quý trọng. Đành rằng là một vị Tăng thì ai cũng có tâm Bồ Tát, nhưng thầy Trí Không có một lực tu học uyên thâm đã tác động mạnh đến Phật tử không phân biệt tuổi tác học hỏi theo. Nhiều năm thầy học ở Tây Tạng và ở Nepal, tiếng Anh, tiếng Phạn thầy đều thông thạo, thầy đã mang những kiến thức thâu nạp được từ kinh điển giáo Pháp sâu rộng của các bậc Sư phụ tôn quý về Việt Nam không tiếc thời gian hướng dẫn Phật tử tu học. Học được ở thầy rất nhiều về bản lĩnh và phương pháp tu học, cách ứng xử với đạo hữu, đó chính là nền tảng từ biđức hạnh căn bản của người tu hành.


solukhumbuduky-01

solukhumbuduky-02

solukhumbuduky-03

solukhumbuduky-04

solukhumbuduky-05

solukhumbuduky-06

Bức tường tại cửa đền Vajrayogini

solukhumbuduky-07

Các chú Tiểu đang học ở Tu viện Drikung Rinchen ở Palri

solukhumbuduky-08

Cụm tháp nhỏ trong di tích Swayambu

solukhumbuduky-09

Ngài Jigme Khyentse Rinpoche

solukhumbuduky-10

Tu viện Dzarong minling Thubten Choling của Ngài Trulshik tại Sitapaila

solukhumbuduky-11

Tu viện Thubten Choling tại Solukhumbu

solukhumbuduky-12

Tượng Quan âm và 9 thần rắn Nalantha trên mặt nước

solukhumbuduky-13

Ý kiến bạn đọc
05 Tháng Mười Một 201406:39
Khách
Bài viết này link lại, sao không có tên tác giả?
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3670)
Với những vị nhấn mạnh duy nhất vào việc trưởng dưỡng Bồ đề tâm trong cuộc đời, lời khuyên thích hợp cho họ khi tiến gần đến cái chết là nương tựa năm sức mạnh để định hướng lối đi của họ đến đời sau.
(Xem: 3864)
không phải là kết thúc của cuộc sống, bởi vẫn còn tái sinh sau khi chết.
(Xem: 3374)
Đừng bao giờ lo âu hay sợ hãi về cái chết. Thay vào đó, hãy cố gắng cải thiện tâm trạng và trưởng dưỡng một nhận thức hoan hỷ rõ ràng
(Xem: 4136)
Sống và chết đều vô cùng quan trọng với mọi người bởi chúng là số phận. Không ai có thể từ chối hay tránh khổ đau liên quan đến sinh, lão, bệnh, tử và cuộc sống thực sự.
(Xem: 4227)
Vài người nghĩ rằng Phật giáo Kim Cương thừa rất huyền bí. Điều này là bởi họ thiếu một sự hiểu về hệ thống tư tưởngthực hành của Kim Cương thừa.
(Xem: 2792)
Các hiện thân của tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tạivị lai; những thủ lĩnh phổ quát của đại dương đàn trànggia đình Phật;
(Xem: 3231)
Tất cả hữu tình chúng sinh trong tam giới của sự tồn tại đều trong tù ngục luân hồichúng ta đều trải qua khổ đau của luân hồi.
(Xem: 3326)
Về điều mà chúng ta sắp lắng nghe, Đức Phật đã ban vô số giáo lý. Nếu chúng ta muốn cô đọng những giáo lý này thì có những giáo lý của thừa căn bản và những giáo lý của thừa đặc biệt.
(Xem: 3245)
Trì Minh Vương hay Vidyadhara tối thắng Rigdzin Jigme Lingpa (1729-98) sinh ở Yoru, Tây Tạng trong một vùng vô cùng khiêm nhường.
(Xem: 3383)
Đèn Soi Nẻo Giác (A Lamp for the Path to Enlightenment), do ngài Atisha vĩ đại (Dipamkara Shrijnana) sáng tác tại Tây Tạng.
(Xem: 4354)
Ngày nọ, Đạo Sư đang an trụ trong sự chứng ngộ khi Ngài diện kiến Đức Kim Cương Tát Đỏa và thọ nhận lời tiên tri:
(Xem: 3384)
Ở Xứ Tuyết Tây Tạng, những giáo lý của Đức Phật được trao truyền trong nhiều dòng truyền thừa.
(Xem: 9409)
Có nhiều câu hỏi về tái sanh thường được nêu ra đối với các Phật tử. Có tái sanh không? Nếu có, có thể nhớ chuyện kiếp trước không? Cái gì tái sanh? Có thân trung ấm hay không?
(Xem: 6934)
Dưới đây là một bài giảng ngắn của Lạt-ma Denys Rinpoché, một nhà sư người Pháp. Ông sinh năm 1949, tu tập theo Phật giáo Tây Tạng từ lúc còn trẻ
(Xem: 7726)
Kyabje Lama Zopa Rinpoche giải thích cách phát khởi thực chứng về các giai đoạn của đường tu giác ngộ trong Khóa Tu Kopan Thứ Mười Hai...
(Xem: 9290)
hật giáo truyền nhập Tây tạng được xem như chính thức từ vua Srong-btsan sGam-po (569–649?/605–649 Tl?); nhưng phải đợi hơn một thế kỷ sau, dưới triều vua...
(Xem: 4454)
Kính lễ Đấng Trang Nghiêm Kim Cang Tát Đỏa. “Tất cả mọi pháp đều không có tự tánh. (Năm) uẩn (skandas), (mười tám) giới (dhatus)...
(Xem: 5129)
Kinh Đại Thừa Địa Tạng Thập Luân nói rằng, theo giáo lý của Đức Phật, có hai kiểu người không làm ác: kiểu đầu tiên là những người...
(Xem: 13348)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 11203)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11511)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10818)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 9256)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 13708)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 14799)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10435)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10522)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9811)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 9861)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10086)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10392)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10518)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10440)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10003)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9727)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13403)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16188)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13358)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 9524)
Những lời khuyên thiết thực, thâm sâutrong sáng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, chỉ cho ta cách tu tập giúp biến cải tâm linh ta, biến ta thành một con người cao cả hơn...
(Xem: 10473)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 12260)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11795)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10612)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13244)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9899)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 12169)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 11637)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 11887)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14253)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 10884)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 15275)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17601)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 14887)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16414)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 14510)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 14413)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18204)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 18372)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 12735)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13322)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant