Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Các Đạo sư của sự Thiền định và những Điều Huyền diệu

10 Tháng Tư 201300:00(Xem: 21626)
Các Đạo sư của sự Thiền định và những Điều Huyền diệu


CÁC ĐẠO SƯ CỦA SỰ THIỀN ĐỊNH VÀ
NHỮNG ĐIỀU HUYỀN DIỆU
CUỘC ĐỜI CÁC ĐẠO SƯ PHẬT GIÁO VĨ ĐẠI
CỦA ẤN ĐỘTÂY TẠNG

Masters of Meditation and Miracles: Lives of the Great Buddhist Masters of India and Tibet
TULKU THONDUP
Harold Talbott hiệu đính
Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên

cacdaosucuasuthiendinh

Bìa ấn bản Anh ngữ

NỘI DUNG

LỜI CẢM ƠN
GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ
LỜI NÓI ĐẦU
Quyển Một
LỜI GIỚI THIỆU
ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI
Sau Đức Phật
PHẬT GIÁOTÂY TẠNG
BA CÁCH TRAO TRUYỀN TRỰC HỆ
CỦA CÁC TANTRA NYINGMA NỘI NÓI CHUNG
Sự Truyền Tâm của chư Phật
Những Trao truyền Biểu tượng của các Trì minh vương
Sự Truyền Khẩu của các nhà Khổ hạnh
NHỮNG DÒNG TRUYỀN THỪA CỦA BA TANTRA NỘI CHÍNH YẾU DÒNG NYINGMA
Mahāyoga
Anuyoga
Atiyoga (Dzopa Chenpo)
Semde
Longde
Me-Ngade
Quyển Hai
DÒNG TRUYỀN THỪA LONGCHEN NYINGTHIG

GIÁO LÝ LONGCHEN NYINGTHIG
DÒNG TRUYỀN THỪA CÁC ĐẠO SƯ LONGCHEN NYINGTHIG
1. Pháp Thân
2. Báo Thân
3. Hóa Thân
4. Prahevajra (Garab Dorje)
5. Manjushrīmitra
6. Shrīsimha
7. Jnānasūtra
8. Vimalamitra
9. Guru Rinpoche, Padmasambhava
 Guru Rinpoche Viếng thăm Tây Tạng
 Năm Phối ngẫu chính của Guru Rinpoche ở Tây Tạng
 Những Đệ tử chính của Guru Rinpoche ở Tây Tạng
10. Künkhyen Longchen Rabjam (1308-1363)
11. Rigdzin Jigme Lingpa (1730–1798)
12. Dodrupchen Đệ Nhất Jigme Thrinle Özer (1745–1821)
13. Jigme Gyalwe Nyuku (1765-1843)
14. Dola Jigme Kalzang (thế kỷ mười chín)
15. Dzogchen Mingyur Namkhe Dorje Đệ Tứ (1793-?)
16. Do Khyentse Yeshe Dorje (1800–1866)
17. Gyalse Zhenphen Thaye (1800-?)
18. Dzogchen Khenpo Pema Dorje (thế kỷ mười chín)
19. Paltrül Jigme Chökyi Wangpo (1808–1887)
20. Dodrupchen Đệ Nhị Jigme Phüntsok Jungne (1824-1863)
21. Jamyang Khyentse Wangpo (1820-1892)
22. Nyoshül Lungtok Tenpe Nyima (1829-1901/2)
23. Önpo Tendzin Norbu (thế kỷ mười chín)
24. Adzom Drukpa Drodül Pawo Dorje (1842–1924)
25. Lushül Khenpo Könchok Drönme(1859–1936)
26. Dodrupchen Đệ Tam Jigme Tenpe Nyima (1865-1926)
27. Shuksep Lochen Chönyi Zangmo (1865–1953)
28. Dzogchen Thupten Chökyi Dorje Đệ Ngũ (1872-1935)
29. Gekong Khenpo Künzang Palden (1872-1943)
30. Yukhok Chatralwa Chöying Rangtröl (1872–1952)
31. Kathok Khenpo Ngawang Palzang (1879-1941)
32. Alak Zenkar Pema Ngödrup Rölwe Dorje (1881-1943)
33. Dzongsar Khyentse Chökyi Lodrö (1893-1959)
34. Kyala Khenpo Chechok Thöndrup (1893–1957)
35. Dilgo Khyentse Tashi Paljor (1910–1991)
36. Chatral Sangye Dorje (sinh năm 1913)
37. Dodrupchen Đệ Tứ Rigdzin Tenpe Gyaltsen(1927-1961)
38. Dodrupchen Đệ Tứ Thupten Thrinle Palzang (sinh năm 1927)
CÂY TRUYỀN THỪA
TÁC PHẨM TRÍCH DẪN
CHÚ THÍCH

 

Lời Cảm ơn

Tôi xin cảm ơn Harold Talbott bởi trí tuệ và sự kiên nhẫn của ông trong việc hiệu đính quyển sách này với sự thận trọng lớn lao và nhận thức sâu sắc; cảm ơn Michael Baldwin vì sự hỗ trợ và hướng dẫn không hề ngừng nghỉ cho những dự án Phật Pháp của tôi trong hơn mười lăm năm; cảm ơn Lydia Segal đã truyền cảm hứng cho tôi trong việc kết hợp thành quyển sách này và rà soát lại nhiều phần của quyển sách; cảm ơn những nhà bảo trợ của Buddhayana, nhờ sự bảo trợ của họ mà từ 1975, tôi đã có thể sử dụng những năm tháng của đời mình để biên soạn và dịch thuật những giáo lý Phật giáo quý báu; cảm ơn David Drove đã hỗ trợ về vi tính; Jonathan và Joan Miller đã chăm sóc sức khỏe cho tôi; cảm ơn Thư viện riêng của Kyabje Dodrupchen Rinpoche tại Chùa Mahasiddha Nyingmapa, Hawley, Massachusetts, và Thư viện Lehman tại Đại học Columbia, Thành phố New York, về những nguồn tài liệu quý báu; cảm ơn Victor và Ruby Lam đã cho phép tôi sử dụng căn hộ thoải mái của họ.

Tôi xin cảm ơn Steven Goodman đã có nhiều đóng góp sâu sắc và chuẩn bị cho bảng chỉ dẫn. Tôi cũng cảm ơn Zenkar Thupten Nyima Rinpoche, Khenpo Chöyag, Gelong Konchog Tendzin, Ani Ngawang Chödron, Ani Lodrö Palmo, và nhiều người khác đã cung cấp rất nhiều thông tin có giá trị.

Tôi xin cảm ơn thầy Samuel Bercholz và nhân viên của Nhà Xuất bản Shambhala đã cung cấp phương tiện toàn hảo để tiểu sử của những Đạo sư đến được với các độc giả. Xin cảm ơn Larry Mermelstein đã trau chuốt cho quyển sách bằng tài năng biên tập của anh. Xin cảm ơn Kendra Crossen đã mang lại cho quyển sách sự hiểu biết sâu xa của cô về văn học, và cảm ơn Brian Boland đã trình bày quyển sách với sự tài hoa của anh.

 

Ghi chú của Tác giả

Tôi đã viết hoa những chữ gốc (Ming gZhi) của mỗi từ trong tiếng Tây Tạng được chuyển tự để bảo đảm các từ được đọc một cách đúng đắn và dễ dàng. Đối với việc ký âm cho chữ Tây Tạng, tôi chủ yếu theo hướng dẫn của Ủy ban Dịch thuật Nālandā do Larry Mermelstein cung cấp.

Từ đầu đến cuối quyển sách tôi đã thêm vào các từ trong dấu ngoặc đơn để làm cho ý nghĩa của những bản văn trích dẫn trở nên rõ ràng hay để cung cấp những từ tương đương trong Phạn ngữ, Tạng ngữ, hay Anh ngữ của chúng. Tôi cũng cung cấp một số cách dịch khác hay những từ đồng nghĩa trong những dấu ngoặc vuông [ ].

Trong phần thư mục, fchữ viết tắt của “folio,” (số tờ) cách đánh số trang theo kiểu Tây Tạng; và pchữ viết tắt của “page” theo cách đánh số trang của Tây phương.

Trong những chú thích, tựa đề của các bản văn trích dẫn được biểu thị bằng những chữ viết tắt, chẳng hạn như BC thay cho sNying Thig Gi brGyud ‘Debs Byin rLabs Ch’ar rGyun do Jigme Lingpa khám phá. Các tựa đề đầy đủ được xếp theo mẫu tự abc được liệt kê trong “Tác phẩm Trích dẫn” ở cuối quyển sách này. Khi một bản văn theo cách đánh số trang kiểu Tây Tạng được trích dẫn, các chữ biểu thị tựa đề được đi theo bởi số folio, nó có chữ a hay b theo sau để chỉ rõ mặt trước hay sau của folio. Đứng kế đó là số dòng. Ví dụ như, “BC 1a/1.” Trang và những số dòng không có chữ a hay b biểu thị cách đánh số trang theo kiểu Tây phương.


Lời nói đầu

Các Đạo sư của sự Thiền định và những Điều Huyền diệu là một tuyển tập tiểu sử của các vị Thầy chứng ngộcuộc đời thì tràn đầy sự an bình, giác ngộ và những điều huyền diệu lạ lùng. Các ngài đã nở rộ ở Tây Tạng, Mái nhà của Thế giới, trong thời đại hoàng kim của nó. Những Đạo sư này thuộc dòng Longchen Nyingthig, phái Nyingma của Phật giáo Tây Tạng.

Longchen Nyingthig (tâm yếu của sự rộng lớn vô hạn, hay chân lý tối hậu của sự mở trống phổ quát) là một giáo khóa gồm những giáo lý bí mật trình bày sự thiền định thâm sâu của Dzopa Chenpo (Đại Viên mãn), do Jigme Lingpa (1730-1798), một học giả và bậc lão thông vĩ đại, khám phá. Jigme Lingpa khám phá những giáo lý này như một “terma tâm” (hay “kho tàng tâm”), những giáo lý được khám phá từ bản tánh giác ngộ của tâm. Đến Jigme Lingpa và sau đó từ ngài cho đến ngày nay, sự trao truyền Longchen Nyingthig được truyền qua dòng truyền thừa của nhiều Đạo sư giác ngộ, mà những vị có cuộc đời kiệt xuất nhất được giới thiệu trong quyển sách này.

Trong quá khứ, khi tôi đọc những tiểu sử mà tôi đã tóm tắt ở đây, tôi thấy đó là những cuộc đời đầy cảm hứngkỳ diệu nhất. Nhưng vào lúc này, khi tôi thuật lại các tiểu sử đó bằng những lời lẽ và cảm xúc của riêng tôi, bản thân tôi thường xuyên trải qua những kinh nghiệm đau khổ, gian lao, hay phấn khích cũng như an bình, hỉ lạc, sáng ngời, hay sự khoáng đạt mà các Đạo sư đã trải qua. Vì thế những cuộc đời không còn là những câu chuyện để đọc hay các đối tượng “ở bên ngoài” để nghĩ tưởng nữa. Chúng là những lóe sáng nội tâm của các Đạo sư, là “chân tánh” của những cuộc đời giác ngộ. Trong “chân tánh” đó, mọi giai đoạn và những biểu lộ khác nhau của các cuộc đời được đồng cảm, giống như những con sông đổ vào đại dương, một khối nước duy nhất. Nếu những tiểu sử này được đọc như những câu chuyện với những nhận thức thông tuệ và đầy cảm xúc thì sự cảm hứnglợi lạc tốt đẹp nhất có thể có được. Nếu những cuộc đời được đọc để cảm nhận và hợp nhất với những kinh nghiệm của các Đạo sư, chắc chắn là những câu chuyện sẽ làm phát khởi sự chứng ngộ tâm linh, tình thương, sự an bình, khoáng đạt, sáng ngời, và khả năng chữa lành trong trái tim độc giả.

Đối với tôi, thật không đúng và quả là điều bất khả khi tôi cố tránh đặc điểm điển hình của các tiểu sử Tây Tạng, đó là việc đưa ra những danh mục bất tận những vị Thầy, giáo lý, và đệ tử của các Đạo sư, mặc dù những danh mục đó có thể thật tẻ nhạt đối với những độc giả không phải là người Tây Tạng. Nhưng tôi đã cố gắng không để cho những chi tiết này làm giảm bớt tính chất sống động của câu chuyện kể. Mỗi khi có thể, tôi đã cố gắng đưa ra những cảm xúc sâu xa về những cuộc đời tâm linh, và đồng thời những cuộc đời bên ngoài hàng ngày của các Đạo sư: làm thế nào các ngài đối mặt và chữa lành nỗi đau khổ của thân xác các ngài, các ngài đối xử với sự rối loạn cảm xúc ra sao, làm cách nào các ngài chiến thắng những ảo tưởng về mặt tâm linh hay thiền định của mình, và quan trọng hơn nữa, các ngài kinh nghiệm gì khi đánh thức Phật Tâm thâm sâu và những Phật chất (phẩm hạnh của Phật) của riêng các ngài.

Quyển sách này có hai phần, phần đầu là một giới thiệu tiểu sử ngắn gọn của Đức Phật và một danh sách các dòng chính yếu của Phật giáoTây Tạng. Trong khi trình bày cuộc đời của Đức Phật dựa trên những Kinh điển truyền thống, tôi đã cố gắng giới thiệu cuộc đời này trong phạm vi ý nghĩa của nó và những lời giảng dạy của ngài hơn là một chuyện kể có tính chất lịch sử. Đối với danh sách các dòng truyền thừa của Phật giáoTây Tạng, tôi đã đưa ra một nét phác họa cấu trúc của một vài dòng chính, nhưng có ít chi tiết về những dòng đó hay những giáo lý của chúng.

Phần thứ hai là phần chính của quyển sách. Nó trình bày nguyên lý của ba thân Phậttiểu sử của ba mươi lăm Đạo sư của dòng Longchen Nyingthig.

Ba thân Phật là Dharmakāya (Pháp thân), thân tối thượng, là sự hoàn toàn mở trống, bản tánh tuyệt đối của Đức Phật; Sambogakāya (Báo thân), thân hỉ lạc, định rõ mọi hình thức Phật đích thực xuất hiện không có sự nhị nguyên chủ thể-đối tượng; và Nirmanakāya (Hóa thân), thân được hiển lộ, là những hình thức của Phật được chúng sinh bình thường tri giác. Ba thân Phật là những suối nguồn của các giáo lý tối thượng, chẳng hạn như Longchen Nyingthig.

Đạo sư đầu tiên của dòng Longchen Nyingthig trong thân tướng con người là Prahevajra (cũng được gọi là Garab Dorje, Kim Cương Hỉ). Cuộc đời của những Đạo sư trong loài người lúc ban đầu từ Prahevajra xuống tới Guru Rinpoche (thế kỷ thứ 9) có một phẩm tính độc nhất vô nhị. Những cuộc đời đó được hiển lộ như một năng lực mạnh mẽ về giới luật và các thành tựu, sở hữu những phú bẩm và năng lực siêu phàm. Từ Longchen Rabjam trở đi, mặc dù cuộc đời của những Đạo sư sau này phản ảnh một con đường, sự hiến dâng, và năng lực khác biệt với chúng ta, nhưng các ngài vẫn có nhiều kinh nghiệm tương tự với những gian khó, khổ đau, và cảm xúc của riêng ta, và ta có thể tưởng tượng bản thân ta đến lúc ta có được năng lực của các ngài để hiến dâng, chữa lành, và chứng ngộ. Như vậy, cuộc đời của các Đạo sư lúc ban đầu là những cuộc đời quan trọng nhất, nhưng đối với nhiều độc giả thì cuộc đời của những Đạo sư sau này dễ làm cho chúng ta nhận thức và đồng cảm hơn.

Dường như có hai lý do khiến có hai loại tiểu sử này. Những thay đổi trong nghệ thuật biên soạn giải thích một vài dị biệt giữa những tường thuật về các Đạo sư lúc ban đầu và các vị sau này. Nhưng lý do chính là sự thay đổi hoàn cảnh, những khả năng của cử tọa và mức độ khoáng đạt và nhận thức của họ.

Thêm nữa, trong số những tiểu sử của các Đạo sư sau này, có nhiều vị chẳng hạn như Do Khyentse, ra đời với trí tuệnăng lực kỳ diệu, trong khi những vị khác như Dodrupchen Đệ Nhất và Jigme Gyalwe Nyuku, đã đạt được những thành tựu tâm linh tối thượng nhờ giới luật của sự khổ hạnh và hiến dâng. Nhiều Đạo sư thường đối mặt với những chướng ngại khắc nghiệt trong hành trình tâm linh của các ngài, nhưng năng lực của sự thấu suốt, hứa nguyện, và cảm hứng của các ngài không chỉ giữ gìn cho các ngài ở trên con đường mà còn dẫn dắt các ngài tới mục tiêu.

Sự trao truyền Longchen Nyingthig chảy qua nhiều Đạo sư của những dòng truyền thừa khác nhau. Trong quyển sách này tôi chỉ có thể đưa vào những Đạo sư chính yếu của bản thân dòng Longchen Nyingthig và những Đạo sưliên hệ trực tiếp trong việc làm cho sự trao truyền Longchen Nyingthig đi tới những vị Thầy của tôi và sau đó tới tôi.

Có rất nhiều tài liệu liên quan tới cuộc đời của nhiều Đạo sư, nhưng đối với một vài Đạo sư quan trọng như Dola Jigme Kalzang, Gyalse Zhenphen Thaye, Khenpo Pema Dorje, Dodrupchen Đệ Nhị, và Önpo Tendzin Norbu, thì tôi chỉ có thể tìm được rất ít tài liệu. Ngoài ra, tôi tập trung nhiều hơn vào các Đạo sưchúng ta có ít tài liệu bằng Anh ngữ về các ngài hơn là những Đạo sưtiểu sử có thể tìm thấy trong Anh ngữ.

Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng trong lịch sử kéo dài hơn mười thế kỷ của Phật giáo. Tuy nhiên, chúng ta không nên có cảm tưởng rằng hầu hết những người Tây Tạng đều là các thiền giả vĩ đại và những bậc lão thông thành tựu phô diễn những năng lực huyền diệu, như tiểu thuyết Lost Horizon (Chân Trời Đã Mất) có thể miêu tả! Những Đạo sư thành tựu như thế rất hiếm có ở Tây Tạng nếu so sánh với toàn thể dân chúng. Đồng thời, chẳng có lý do gì để nghi ngờ việc các ngài là những bậc có năng lực tâm linhchứng ngộ vĩ đại. Nơi nào có những hoàn cảnh thích hợp và có sự hiến dâng tuyệt đối cho sự tiến bộ của phẩm tính tâm linh của tâm hơn là sự tiến bộ vật chất, thì người ta sẽ được chứng kiến những thành tựu tâm linh như thế không chỉ trong nền văn minh Tây Tạng, mà còn trong nhiều nền văn hóa trong toàn bộ lịch sử thế giới trong những thời đại hoàng kim giàu có tâm linh.

Đối với tôi tài liệu trong quyển sách này là nguồn tài liệu gây cảm hứng nhất mà tôi từng có khi biên soạn. Mỗi Đạo sư thì hoàn toàn khác biệt nhưng các ngài lại rất giống nhau. Mỗi Đạo sư vĩ đại có đặc tính độc nhất vô nhị để hiển lộ, có vai trò để đóng, có nơi chốn để thực hiện trong dòng truyền thừa Longchen Nyingthig quý báu này. Hầu hết các Đạo sư vĩ đại này đã ra đi, biến mất vào quá khứ xa xôi, nhưng sự hiện diện của các ngài trong dòng truyền thừa quý báu này, những lời dạy của giáo lý giác ngộ của các ngài, và năng lực mang lại những gia hộ của các ngài thì vẫn ở lại với chúng ta.

 

XEM CHI TIẾT NỘI DUNG: CÁC ĐẠO SƯ CỦA SỰ THIỀN ĐỊNHpdf_icon

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22061)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 27432)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 37840)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 20664)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14485)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 19549)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 14411)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 20888)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28595)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27160)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21883)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21393)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26156)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21552)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23354)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 23137)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19780)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22877)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21090)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19926)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15376)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 26006)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22492)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22805)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 30421)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 33160)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35483)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 27017)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 17700)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24304)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 14622)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant