Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ý nghĩa và hướng dẫn thực hành Bản tôn Trí tuệ Văn Thù Sư Lợi

17 Tháng Tư 201300:00(Xem: 18988)
Ý nghĩa và hướng dẫn thực hành Bản tôn Trí tuệ Văn Thù Sư Lợi

vanthu-drukpa-01Thứ tư ngày 10/4, Đức Nhiếp Chính Vương Gyalwa Dokhampa Jigme Pema Nyinjadh và Tăng đoàn Truyền thừa quang lâm và ban truyền đại lễ quán đỉnh cộng đồng trí tuệ Văn Thù, cầu nguyện quốc thái dân an tại chùa Bảo Sơn, phường Liên Bảo, Vĩnh Phúc. Dưới đây là các phần khai thị về Bản tôn Trí tuệ Văn Thù do Drukpa Việt Nam tổng hợp từ Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa và Đức Nhiếp Chính Vương Gyalwa Dokhampa để giúp quý Phật tử hiểu hơn về pháp tu trì thù thắng này!

1. Lợi ích của tu trì Bản tôn Trí tuệ

Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật. Đức Phật có ba khía cạnh, trong đó Đức Quan ÂmBản tôn hiện thân của khía cạnh Từ bi, Đức Văn ThùBản tôn hiện thân của khía cạnh Trí tuệ, và Đức Kim Cương Thủhiện thân của khía cạnh Dũng lực. Việc thực hành cả ba Bản Tôn trên là rất cần thiết và quan trọng. Trong đó khía cạnh về trí tuệ là khía cạnh đặc biệt quan trọng, không những cho sự giác ngộ rốt ráo mà còn thiết thực cho đời sống hiện tại của chúng ta.

Khi bắt đầu thực hành Phật Pháp, điều quan trọng nhất là chúng ta phải có trí tuệ sắc bén mới có thể thực hành giáo pháp không sai lệch. Chúng ta cũng rất cần có trí tuệ để sống hạnh phúc thành công, bởi nếu khôngtrí tuệ, chúng ta sẽ lãng phí năng lượng và cơ hội chứng đạt hạnh phúc tương đốituyệt đối. Có rất nhiều điều để nói về trí tuệ hay sự hiểu biết chân thực. Chẳng hạn, khi nói rằng mình có hiểu biết chân thực về một ai đó thì trong quan kiến Phật pháp, điều này có nghĩa là bạn cần hiểu biết tường tận, thấu đáo về con người này, không chỉ về mặt sự tướng hay cảm nhận bên ngoài mà bạn cần hiểu về bản chất rốt ráo của người đó là gì. Nếu khônghiểu biết thì dưới ảnh hưởng của vô minh và những sự chấp trước nhị nguyên ta-người, bạn sẽ hành xử theo cách thế gian thông thường và điều này sẽ không lợi ích cho bạn, cho người này và cho cả mối quan hệ đôi bên. Nếu gỡ bỏ được lớp màn vô minh, bạn sẽ có thể hành xử với người này bằng trí tuệ. Một ví dụ khác là sát sinh. Trong quá khứ, bạn thường hứng thú một cách ý thức hay vô ý thức với những việc vô cùng khủng khiếp như thú đi câu, săn bắn, băm, chặt, xào da nấu thịt chúng sinh... Nhưng giờ đây, vì có trí tuệ để thấu hiểu những nỗi đau đớn mà con vật đáng thương kia phải trải qua, bạn bắt đầu có hiểu biếtphát khởi tình yêu thương nên bạn sẽ không còn muốn sát sinh. Một cách nhậm vận tự nhiên, bạn trở nên từ bi, bác ái hơn. Ngay khi tâm vị kỷ, ngã ái suy giảm thì tình yêu thương sẽ được hiển lộ.

Bất cứ hiểu biết thông thường nào đều có thể được coi là một hình thức “giác ngộ”. Tuy nhiên, sự giác ngộ hoàn toàn hay giác ngộ chân thực, chỉ có thể đạt được thông qua thực chứng tự tính tâm hay Chân lý Vũ trụ bên trong chính bạn. “Bên trong” không chỉ vị trí cụ thể nào trên thân thể mình mà cần hiểu rằng sự giác ngộ phải được trưởng dưỡng ở ngay trong tâm bạn. Và chắc chắn rằng sự giác ngộ hoàn toàn luôn thể hiện dưới sự hợp nhất của từ bitrí tuệ. Từ bitrí tuệ luôn đi cùng với nhau, như hơi ấm xuất hiện cùng ngọn lửa, hơi ẩm xuất hiện cùng với nước. Mặc dù chúng ta luôn nói về từ bi, luôn đề cao lòng từ bi nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc thực sự thấu hiểu bản chất của từ bi. Về bản chất, từ bi chính là sự trưởng dưỡng trí tuệ hiểu biết. Trí tuệ ở đây không chỉ là tình yêu thương thông thường mà là toàn bộ vũ trụ hay chân lý vũ trụ. Phát triển trí tuệ hay trưởng dưỡng hiểu biết về chân lý cũng chính là trưởng dưỡng một trái tim rộng mở, cho phép bạn hòa nhập với thế giới quanh mình. Bạn cần biết mọi người, mọi loài xung quanh mình thực sự cần gì. Hiểu biết như vậy chính là trí tuệ và điều này tạo ra sự rộng mở vô hạn của tâm, đối lập với trạng thái tâm khóa kín và chấp thủ, chỉ khư khư bám chặt vào bản ngã tạo nên vô vàn chướng ngại cho chính bạn.

Nói cách khác, bạn cần trưởng dưỡng trí tuệ hiểu biết trước khi biến tâm từ bi thành hành động cụ thể của tình yêu thương. Lẽ dĩ nhiên, tình yêu thương thể hiện bằng hành động là vô cùng cần thiết, là điểm đến cuối cùngmục đích của bạn. Điều này có nghĩa là, bạn trưởng dưỡng trí tuệ hiểu biết hay tâm từ bi đều nhằm mục đích rốt ráo là đem lại và chia sẻ tình yêu thương đối với tha nhân. Nếu chỉ từ bi ở trong tâm mà không làm gì để truyền tải tâm từ bi đó thì sẽ chẳng mấy ý nghĩalợi ích.

Nếu tình yêu thương thiếu trí tuệ hiểu biết, nó sẽ trở thành tình yêu thương mù quáng, gây nên vô số vấn đề. Tình yêu thương không bao giờ nên được hiểu thuần túy như sự thương cảm ủy mị hay một trái tim mềm yếu. Kết quả của thành tựu, trưởng dưỡng tình yêu thương chính là bạn trở nên sáng suốt, giác ngộ hơn, bạn có được trí tuệ vô phân biệt giúp chuyển hóa cuộc sống từ tăm tối, vô minh sang một trang mới tràn đầy ánh sáng giác ngộ. Đó là cái đích mà chúng ta hướng đến và vì lẽ này, từ hôm nay trở đi, chúng ta cần gieo trồng những nhân phù hợp để cho quả của Trí tuệ giác ngộ bừng sáng. Việc vun bồi những nhân đó vô cùng quan trọng. Chúng ta không thể chỉ thực hành một cách mù quáng mà không biết đâu là nhân lành và những thiện hạnh mình cần làm để tiến bước trên con đường giải thoát giác ngộ.

Đức Văn Thù là một bậc Cổ Phật danh hiệuLong Chủng Thượng Tôn Vương Phật, mật hiệuBát Nhã Kim Cương, Ngài là bậc đệ nhất trí tuệ trong tất cả chư Bồ Tát. Đức Văn Thù thị hiện rất nhiều pháp tướng khác nhau. Trong Kim Cương thừa, Ngài hiện pháp tướng Kalachakra, còn trong Đại thừa, Ngài hiện pháp tướng Bồ Tát Văn Thù như thông thường chúng ta vẫn biết. Đức Văn Thù còn hiện thân dưới thân tướng các bậc Thầy, như Bồ tát Long Thọ là bậc Thầy Phật giáo vĩ đại nhất ở Ấn Độ. Như vậy, Ngài có thể thị hiện dưới rất nhiều pháp tướng khác nhau để lợi ích chúng sinh!

Pháp tu Văn Thù dành cho tất cả mọi người. Nhiều hành giả đã đạt giác ngộ nhờ pháp tu này từ hàng ngàn năm nay kể thời Đức Phật Thích Ca. Phần quán tưởng và trì tụng là quan trọng nhất, và nếu thực hành, chúng ta sẽ có được sự tỉnh thức, trí tuệ để ý thức được những gì mình làm – không chỉ ý thức được những nghiệp bất thiện mà cả thiện hạnh. Nhờ có trí tuệ, chúng ta sẽ tích cực thực hành nhiều thiện hạnh, giảm bớt những ác hạnh và cuộc sống sẽ trở nên hạnh phúc tốt lành hơn.

2. Ý nghĩa hình ảnh Bản tôn

vanthu-drukpa-02

Để thực hành pháp tu Trí tuệ Văn Thù, hành giả cần quán tưởng Bản tôn Văn Thù hiện diện sống động trước mặt mình. Đức Văn Thù có rất nhiều pháp tướng: vàng, đỏ, trắng,… nhưng hình ảnh phổ thông nhất là Đức Văn Thù sắc vàng cam. Ngài an tọa trên nguyệt luân hoa sen, trang hoàng bằng các bảo báu trang nghiêm, đầu đội mũ Bảo quan biểu trưng cho Ngũ Phật, tóc kết thành năm búi trên đỉnh đầu biểu trưng cho năm trí tuệ. Tay phải Ngài cầm Kiếm báu, tay trái đỡ Kinh báu. Kiếm tượng trưng cho trí tuệ có thể cắt đứt tất cả những phiền não, vô minh, mê vọng. Kinh báu tượng trưng cho giáo pháp của chân lý vũ trụ, những sự thật tự nhiên của toàn bộ vũ trụ. Sắc vàng cam tượng trưng cho sự hàng phục, chấm dứt tất cả những sự hiểu biết sai lạc, những hành động vô minh do thiếu trí tuệ hiểu biết. Những ác nghiệp như sát sinh, trộm cắp,… mà chúng ta phạm phải vì vô minh đều cần được chấm dứt với sự trưởng dưỡng trí tuệ Văn Thù.

Pháp tu Văn Thù là sự thực hành hai công hạnh Hàng phụcTăng ích, trong đó sắc đỏ tượng trưng cho sự Hàng phục và sắc vàng tượng trưng cho Tăng ích. Hai sắc vàng cam của Ngài hòa vào nhau nêu biểu cho sự hợp nhất của hai công hạnh này. Đức Bản tôn Văn Thù phải được quán không phân tách với Bậc Thượng sư của mình. Nếu chúng ta không có trí tuệ để thấy Đức Bản tôn Văn Thù không khác biệt với bậc Thượng sư thì kết quả của sự thực hành sẽ là rất chậm, có thể kéo dài hàng trăm năm và không biết bao giờ mới đến đích. Bởi vậy ta phải tin tưởngquán tưởng Bậc Thượng sư của mình luôn bất khả phân với Đức Bản tôn Trí tuệ Văn Thù.

3. Hướng dẫn thực hành quán tưởng

Chúng ta quán ở luân xa tim của đức Thượng sư Văn Thù an trú chữ chủng tử DHI, quay xung quanh là chuỗi chân ngôn OM A RA PA TSA NA sắc vàng cam. Chuỗi chân ngôn từ luân xa tim của bậc Thượng sư tuôn qua miệng của Ngài tới luân xa trán của chúng ta, đi dọc cơ thể xuống luân xa tim. Và từ luân xa tim của chúng ta phóng hào quang chiếu đến luân xa tim của bậc Thượng sư. Hào quang này là tâm chí thành, khi ánh sáng chạm đến và cúng dàng lên bậc Thượng sư, ta quán tưởng bậc Thượng sư tràn đầy sự toàn giác, và từ thân giác ngộ của Ngài tỏa sáng hào quang khắp vũ trụ. Giống như chiếc bóng đèn tỏa ánh sáng tràn ngập khắp căn phòng, toàn thân Ngài tỏa sáng và phóng ánh hào quang khắp mười phương. Vậy là chủng tử tự DHI sắc vàng cam chiếu sáng lan rộng tràn ngập toàn thân Thượng sư Văn Thù và sau đó ánh sáng lan tỏa tràn khắp vũ trụ.

toàn bộ vũ trụ tràn ngập trí tuệ. Hào quang này không phải là ánh sáng thông thường mà thực chất đó chính là trí tuệ, đôi khi chúng ta gọi là trí quang (ánh sáng trí tuệ). Khi hào quang chiếu khắp vũ trụ, vũ trụ tràn ngập trí tuệ thì tất cả mọi người, toàn bộ chúng sinh trong vũ trụ đều trở nên thông minh, trí tuệthành tựu giác ngộ. Tiếp đến, chúng ta quán tưởng ánh sáng từ vũ trụ, từ tất cả chúng sinh chiếu trở lại cúng dàng bậc Thượng sư như một sự tri ân, tan vào chủng tử tự DHI ở luân xa tim của bậc Thượng sư.

Sau đó, hào quang đó chiếu trực tiếp vào hành giả như ánh sáng của ngọn đuốc tuệ, gia trì cho chúng ta. Hào quang tràn đầy khắp thân khẩu ý của chúng ta, chúng ta trở thành giống như quả cầu ánh sáng tỏa hào quang rực rỡ và từ ta ánh sáng trí tuệ lại chiếu khắp vũ trụ. Lúc này mỗi chúng sinh đều chuyển thành đức Bản tôn Trí tuệ Văn Thù.

Cứ như vậy, ta quán tưởng nhiều lần. Có thể quán 3, 4 lần sau đó ta thư giãn, an trụ trong tâm vô niệm không thủ không xả vài phút, sau đó lại thực hành 3, 4 lần rồi lại thư giãn,… cứ như vậy trong khoảng 02 tiếng của Thời khóa chuyên tu.

Trong khi thiền định quán tưởng hãy trì tụng Chân ngôn

OM A RA PA TSA NA DHI

Kết thúc phần thiền định quán tưởng, chúng ta hãy hồi hướng, nguyện cầu đức Bản Tôn Văn thù ban gia trì vượt qua vô minh của hai ám chướng: phiền não chướng – là xúc tình xuất phát từ tham luyến, và sở tri chướng – là nhận thức sai lệch xuất phát từ quan kiến nhị nguyên sai lầm. Hồi hướng công đức đến sự giác ngộ, tăng trưởng trí tuệ của tất cả chúng sinh không phân biệt.

Drukpa Việt Nam


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 272)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(Xem: 272)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng –
(Xem: 376)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(Xem: 751)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(Xem: 731)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(Xem: 849)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(Xem: 820)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(Xem: 1118)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(Xem: 1343)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 1135)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(Xem: 2434)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(Xem: 1830)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(Xem: 3528)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(Xem: 1657)
Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một.
(Xem: 2594)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(Xem: 2364)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(Xem: 2018)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(Xem: 2975)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(Xem: 2060)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(Xem: 2393)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(Xem: 1822)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(Xem: 1710)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(Xem: 2449)
Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok.
(Xem: 1525)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(Xem: 2826)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(Xem: 1872)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(Xem: 3804)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(Xem: 2129)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(Xem: 1969)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(Xem: 2520)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(Xem: 4498)
Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1].
(Xem: 1930)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(Xem: 2825)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(Xem: 1655)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(Xem: 2556)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2644)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2039)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3622)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(Xem: 3078)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(Xem: 2005)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(Xem: 2053)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(Xem: 2382)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(Xem: 2076)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(Xem: 1920)
Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche
(Xem: 2463)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(Xem: 2138)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(Xem: 2161)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(Xem: 2576)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(Xem: 3652)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(Xem: 2230)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(Xem: 3332)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(Xem: 3007)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(Xem: 5277)
Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.
(Xem: 2625)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(Xem: 3908)
Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.
(Xem: 5328)
Hôm nay, chúng ta đều đã đến Vườn Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, Ấn Độ, vùng đất của chư Thánh giả, nơi đã được cúng dường lên Đức Phật.
(Xem: 3864)
Điều đầu tiên mà bạn cần hiểu là mọi hữu tình chúng sinh đang sống trên thế giới này – ‘hữu tình chúng sinh của tam giới của sự tồn tại’ – là một sản phẩm của tâm.
(Xem: 2788)
Khi chúng ta nhìn vào hiện tượng vật chất trong thế giới này, chúng ta thấy rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của nó.
(Xem: 2519)
Guru Rinpoche chào đời tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài sách tấn các đệ tử hãy hoan hỷ bởi Ngài sẽ trở lại là Guru Rinpoche.
(Xem: 2733)
Gần đây, nhiều người hỏi về Khandro Rinpoche tôn quý và những hoạt động tâm linh của Bà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant