Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật

05 Tháng Sáu 201300:00(Xem: 16767)
Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật

KHO TÀNG GIA TRÌ - NGHI QUỸ ĐỨC PHẬT



buddhasadhana-01

Đức Phật Shakya Muni cùng chư vị A La Hán

Na-mo Gu-ru Sha-kya Mu-na Ye.

Như trong Kinh Tam Muội Vương có thuyết:

“Khi đi, khi đứng, khi nằm và khi ngồi,

Người nào nhớ tưởng vầng trăng Đức Năng Nhân,

Bổn Sư thường hằng an trụ trước người đó,
Người đó sẽ đắc quảng đại quả Niết Bàn”.


Và:

“Thân thể thanh tịnh như sắc màu vàng kim,
Hổ Chủ Thế Gian khắp thảy cực trang nghiêm,

Người nào để tâm chuyên chú quán như vậy,

Đó là nhập định nơi các hàng Bồ Tát.”
 
Như đã tuyên thuyết, nên phải thực hành du già thường tùy niệm tưởng Đức Năng Nhân Vương, Bổn Sư vô đẳng của tất cả chúng ta. Như vậy thì:
 
 [Quy yPhát tâm:]
 
Chư Phật, Chánh Pháp, Tăng Già thù thắng bảo,
Cho đến giác ngộ con nguyện nương quy y.
Công đức có được như con hành bố thí,
Nguyện thành Phật Quả vì lợi ích chúng sinh.

Ba lần và:
 
Nguyện hết thảy hữu tình có được an lạc và nhân của an lạc.
Nguyện [hết thảy hữu tình] viễn ly đau khổ và nhân của đau khổ.
Nguyện [hết thảy hữu tình] bất ly sự an lạc tối thượng không có đau khổ.
Nguyện [hết thảy hữu tình] trú trong xả vô lượng viễn ly ái tằng, thân sơ.
(người thương kẻ ghét, người thân kẻ lạ)  
Ba lần.


Trước lúc phát tâm tu tứ vô lượng, thì trong trạng thái tâm ý nhớ tưởng đến ý nghĩa tự tánh bất thành lập đối với hết thảy các pháp (hiện tượng) hiển hiện.
 
 [Quán tưởng:]
 
Ah! Vô sinh Không Tánh cùng với Duyên Khởi Tánh,
Quang minh vô ngại song vận lý huyễn ảo,
Hư không trước ta biển cả mây cúng dường,
Bảo tòa sư tử, trên hoa sen, nhật, nguyệt.
Bổn Sư vô đẳng, sư tử tộc Sha-kya,
Hảo tướng, tùy hình đầy đủ sắc vàng kim,
Đắp Tam Pháp Y, ngồi thế kim cương tọa.
Tay phải duỗi thẳng trong thế Xúc Địa Ấn,
Tay trái giữ bát cam lồ Bình Đẳng Ấn,
Như núi vàng kim uy nghi phổ chiếu quang,
Trùm khắp hư không lưới hào quang trí tuệ.
Tám cận Nam Tử cùng mười sáu Trưởng Lão (1),
Hải hội Thánh chúng, quyến thuộc đông vi nhiễu,
Duy chỉ nhớ niệm, từ nhị biên hữu tịch (2)
Giải thoát, ban cho kiết tường của thắng lạc.
Đấng Chí Tôn hiện tổng nhiếp chốn quy y.

(1) Tám Đại Bồ Tát, mười sáu A-la-hán.
(2) Giải thoát từ hiện hữu của sinh tửtịch tĩnh của Niết Bàn, gọi tắt là hữu tịch.
 

Khi quán tưởng thân của Đức Phật như thế thì lập tức khởi tâm nghĩ tưởng rằng [Ngài] thật sự có an trụ nơi đó. Bởi vì đối với thân trí tuệ của Chư Phật, bất kỳ phương hướngthời gian nào cũng không có khoảng cách xa gần. Quán tưởng bất kỳ nơi nào thì chắc chắn Ngài sẽ an trụ chính nơi đó. Từ trong Kinh đã thuyết:

“Dù ai tác ý nơi Đức Phật,

Thì Phật an trụ ở trước đó,

Thường hằng ban cho lực gia trì,

Giải thoát hoàn toàn các tội chướng”

Vì thế quán tưởng Đấng Thắng Phật thì tư lương đã tích tập cũng sẽ không bị hoang phí, thiện căn không bị hư hoại. Trong Kinh Hoa Nghiêm:

“Nghe, thấy, thực hành cúng dường chư Thắng Phật,

Vô lượng phước đức chất chứa sẽ tăng trưởng,

Sẽ đoạn hết thảy phiền não, khổ luân hồi,

Trong khoảng giữa này duyên hợp sẽ bất tận”

Ở trước Phật phát nguyện như thế nào thì cũng sẽ thành tựu giống y như vậy. Từ trong Kinh Tuyên Thuyết Văn Thù Tịnh Thổ Công Đức:

“Hết thảy chư Pháp như duyên sinh,

Thường trú trên đỉnh của hy vọng,

Người nào vun trồng sự phát nguyện,

Sẽ đắc được quả giống như thế”

Hãy sinh khởi sự xác quyết kiên cố đối với các chân lý đã tuyên thuyết.

 

Đại bi nhiếp thụ ác thế, cấu trược thời,

Sau đó phát thệ năm trăm lời đại nguyện,

Tán như bạch liên, nghe danh bất thoái chuyển,

Cung kính đảnh lễ Bổn Sư Đại Từ Bi.

Thiện căn ba cửa, thụ dụng con và người,

Dâng cúng quán như mây cúng dường Phổ Hiền.

Tội chướng không sót tích tập từ vô thuỷ,

Tận lòng hối hận mãnh liệt phân biệt sám.

Thiện hạnh của chư Thánh giả cùng phàm phu,

Ba thời tích tập công đức con tùy hỉ.

Chánh lý thậm thâm, quảng đại Diệu Pháp Luân,

Thỉnh chuyển liên tục không ngừng khắp mười phương.

Nơi Ngài có thân trí tuệ như hư không,

Mặc dù an trú tam thời bất chuyển di,

Nhưng tuỳ tâm trạng chỉ bày lý sinh diệt,

Sắc Thân Biến Hóa thường hằng thị hiển hiện.

Con đã tích tập thiện căn trong tam thế,

Để lợi hết thảy chúng sinh khắp hư không,

Thường hằng tạo sự hoan hỷ nơi Pháp Vương,

Nguyện đắc quả vị Pháp Chủ Chiến Thắng Phật.

Chúng con, chúng sinh thời trược không hổ chủ,

Tăng thượng đại bi nhiếp phục bằng ân đức,

Thời này, cõi này hiện diện của Tam Bảo,

Bao nhiêu đều là sự nghiệp của chính Ngài.

Vì thế vô đẳng tối tôn chốn quy y,

Thành kính tín ngưỡng hết lòng con cầu khẩn,

Đừng quên thuở xưa đã phát đại thệ nguyện,

Cho đến giác ngộ nhiếp phục bằng đại bi.

 

Với tín tâm kính ngưỡng (tâm thắng giải tín) mãnh liệt, nghĩ tưởng rằng Đức Bổn Sư thật sự có an trụ, chuyên chú quán tưởng nơi thân tướng [Đức Phật] mà tận lực tụng niệm:

 

Cung kính đảnh lễ, cúng dường, quy y Thượng Sư, Tôn Sư Hoại Hữu Xuất, Như Lai, Phá Oán, Chánh Đẳng Viên Mãn Giác Ngộ, Thánh Đức Chiến Thắng Sha-kya Năng Nhân.

[Đấng Tôn Sư Hoại diệt bốn ma, sở Hữu sáu phẩm hạnh, Xuất ly khỏi ranh giới sinh tử Niết Bàn, Đấng Như thế mà đến, Phán oán phiền não, giác ngộ chân chánh đủ đầy, Bậc thánh đức chiến thắng dòng tộc Sha-kya Mâu ni]

 

Đà-ra-ni (tổng trì) được tuyên thuyết từ trong Kinh Tiểu Bát Nhã, là cách khuyến thỉnh dòng tâm thức của [Đức Phật].

 

 “Te-ya-tha, Om Mu-ni Mu-ni Ma-ha Mu-na-ye Soa-ha”

 

Nhiều lần, và từ “Om” trở đi hãy tận lực trì tụng. Trong thời điểm này tùy niệm tưởng đến phẩm hạnh của Đức Bổn Sư, và với tâm tín ngưỡng chuyên chú quán tưởng vào thân tướng [Đức Phật] hiển hiện rõ ràng. Dựa vào việc tụng niệm danh hiệu và trì tụng đà-ra-ni nên:

 

Từ thân Đức Bổn Sư phóng đại quang minh chứa đủ loại hào quang trí tuệ, xóa tan tất cả tội chướng của con và hết thảy chúng sinh.

sinh khởi như lý những đức hạnh từ con đường Đại Thừa để có được dũng khí nơi địa vị Bất Thoái Chuyển.

 

Hãy tận lực tinh tấn tụng niệm như thế.

Tùy thời gian căn cứ tình huống mà cúng dường như mạn-đà-la (xin xem trang kế), tụng đọc các loại tán thán Đức Năng Nhân (xin xem trang kế) hay bất kỳ loại Kinh nào theo ý muốn như Kinh Đại Bi Bạch Liên Hoa (hay Kinh Bi Hoa), Kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm (hay Kinh Thần Thông Du Hí), Kinh Bổn Sanh các loại (tức Truyện tiền thân Đức Phật), Một trăm linh tám danh hiệu Như Lai v.v… hãy tận lực tụng đọc như thế.

Hãy niêm phong hết thảy gốc rễ của thiện hạnh bằng sự hồi hướng cho Vô Thượng Bồ Đềphát nguyện (xin xem trang kế).

Nói chung, khi đi, đứng, nằm, ngồi hết thảy mọi thời không quên nhớ tưởng đến Đức Bổn Sư, và ban đêm cũng quán tưởng thân hào quang của Đức Bổn Sư thật sự an trụ phát quang soi sáng hết thảy các phương dường như cực kỳ sáng sủa giống như ban ngày, ở trong cảnh giới (tưởng) đó rồi đi vào giấc ngủ. Bình thường cũng nhớ tưởng, hoàn cảnh chính Đức Bổnngày xưa đã bắt đầu phát tâm như thế nào, nổ lực noi theo các điển tích của Tam Thế Chư PhậtChư Đại Bồ Tát, trong trạng thái không buông thả thệ nguyện của tâm bồ đề trân quý mà thực hành Bồ Tát Hạnh nói chung và đặc biệt tinh tấn tận lực tu hành du già chỉ quán (thiền chỉthiền quán), như vậy đối với việc có được thân người hạ mãn này sẽ tràn đầy ý nghĩa. Trong các Kinh có thuyết duy chỉ cần nghe danh hiệu chính Đức Bổn Sư của chúng ta thì sẽ từ từ bất thoái chuyển nơi con đường Đại Giác Ngộ. Trong Kinh Tiểu Bát Nhã Ba La Mật Đa: “Hết thảy Chư Phật khởi sinh từ đà-ra-ni được chỉ bày trên đây. Chính Quân Vương Sha-kya đã thành Phật nhờ vào oai thần có được của đà-ra-ni này và Đức Quán Thế Âm đắc được hàng Thù Thắng Bồ Tát. Duy chỉ nghe thấy đà-ra-ni này sẽ không khó nhọc mà đắc được quảng đại phước đức và tịnh hóa hết thảy nghiệp chướng. Nếu tu Mật Chú sẽ đạt được thành tựu không có ma chướng”, đã tuyên thuyết như thế. Từ trong Kinh điển khác cũng có thuyết: “Trì tụng một lần đà-ra-ni này sẽ có được vô lượng công đức lợi ích như được tịnh hoá hết thảy tội lỗi đã tạo trong tám trăm tỷ kiếp (câu chi bát vạn 10.000.000x80.000). Và đây chính là tâm yếu thù thắng của Đức Sha-kya Năng Nhân Như Lai”. Cách thức nỗ lực làm sao để phát khởi tín tâmtu hành du già chỉ quán có tuyên thuyết trong các luận điển khác.

 

Nghi quỹ này có được là do Won Orgyen Tendzin Norbu, một kho tàng châu báo tam học (giới, định, huệ), đã cúng dường kiết tường khăn ka-tag khẩn thiết khuyến thỉnh, và tôi đã ghi khắc trong tâm khảm. Gần đây nhất, Won Rinpoche lại ủy thác Hoá thân Jigme Pema Dechen đến cùng với các cúng phẩm như đệ nhất bảo vật (vàng ròng), kiết tường khăn ka-tag, thỉnh cầu “Xin nhanh chóng hoàn thành tu pháp nghi quỹ này”. Ứng với lời khuyến thỉnh của nhị vị đại đức, và sự có được tín tâm bất thoái nơi Đức Bổnthù thắng, Mipham Jamyang Gyatso, một người theo sau Đức Sha-kya, chỉ mang danh hiệu Thuyết Pháp Giả trong mạt thời này, đã hoàn thành dưới núi Dza Dorje Phenphug tại Phuntsog Norbu Ling (Viên Mãn Bảo Châu) tự viện, vào ngày mùng 8 tháng Đại Thần Biến năm Canh Tý Thiết Thử. Nguyện việc làm này sẽ liên tục không ngừng xuất hiện những điều kỳ diệu đối với việc hoàng Pháp lợi sinh. Nguyện năng lực gia trì vô đẳng của Đức BổnNăng Nhân thật sự thâm nhập nơi dòng tâm thức của hết thảy chúng sinh đã nhìn thấy, lắng nghe, nhớ tưởng, xúc chạm với nghi quỹ này.

“Nghe thấy thanh danh Tam Bảo trong cõi này,

Ân đức vô đẳng nghi quỹ Bổn Sư đây,

Kho tàng gia trì hỷ tiệc của chư chúng,

Ấn tống, kết nối nguyện họ đắc thành Phật.”

Manggalam – Nguyện kiết tường!

 

 

MẠN-ĐÀ-LA BA MƯƠI BẢY CÚNG PHẨM

 

 buddhasadhana-02

Mạn-đà-la ba mươi bảy cúng phẩm

 

Om Ben-gia Bhu-mi Ah Hung!

Nền đại lực viên mãn thanh tịnh, mặt đất bằng vàng.

Om Ben-gia Re-khe Ah Hung!

Ngoại chu vi Thiết Sơn bao xung quanh trung tâm Hung.

Giữa Tu Di Sơn Vương,

Đông Thắng Thân Châu, Nam Thiệm Bộ Châu,

Tây Ngưu Hóa Châu, Bắc Câu Lô Châu.

Thân, Thắng Thân Châu; Miêu Ngưu Thắng, Miêu Ngưu Châu;

Siểm Châu, Thắng Đạo Hành Châu;

Ác Âm Châu cùng với Ác Âm Đối Châu.

Núi Lớn đại trân bảo, Cổ Thụ như ý,

mãn nguyện, Mùa thu hoạch không cày,

Luân Xa đại trân bảo, Ngọc Châu đại trân bảo,

Vương Hậu đại trân bảo, Tể Tướng đại trân bảo,

Voi Lớn đại trân bảo, Tuấn Mã đại trân bảo,

Tướng Quân đại trân bảo, Bình Báu đại bảo tàng.

Kiều diễm nữ, Tràng hoa nữ, Ca nữ, Vũ nữ,

Hoa tươi nữ, Đốt hương nữ, Minh đăng nữ, Xoa hương nữ,

Mặt trời, Mặt trăng, Đại trân bảo lọng,

Bảo tràng chiến thắng hết thảy các phương.

Tất cả tài sản viên mãn thịnh vượng của trời và người không món nào không có, như thế cung kính dâng lên hết thảy Thánh Nhân Thượng Sư uy đức bao gồm Căn Bản Sư và Truyền Thừa Sư, hết thảy Thiên chúng trong đàn tràng Bổn Tôn, tập hội Chư Phật và Chư Bồ Tát.

Đại bi xin nhận vì lợi chư chúng sinh,

Khi nhận cầu thỉnh ban gia trì.

 

Xoa khắp diệu hương, rắc hoa nơi đại địa,

Trang hoàng Tu Di, Tứ Châu cùng Nhật Nguyệt,

Quán như Cõi Phật con vui dâng cúng dường,

Nguyện chúng hữu tình thụ dụng thanh tịnh thổ.

I-dam Rat-na Man-da-la Kam Nir-ya-ta Ya-mi

 

 

TÁN THÁN MƯỜI HAI CÔNG HẠNH PHẬT (*)

 

 buddhasadhana-03

Thánh họa trình bày mười hai công hạnh Phật

 

Phương xảo từ bi sinh vào tộc Sha-kya (1),

Hoại diệt ma quân, tha nhân không thể thắng,

Thân tướng uy nghi như núi vàng Tu Di,

Quân Vương Sha-kya nơi Ngài cung kính lễ.

Là bậc đầu tiên phát khởi tâm giác ngộ,

Thực hành viên mãn phước trí hai tư lương,

Công hạnh quảng đại thời này (2)trở thành

Hỗ chủ chúng sinh nơi Ngài con tán thán.

Làm lợi Chư Thiên biết đúng thời điều phục,

Từ trời giáng thế như voi lớn quang lâm,

Quán thấy chủng tộc, nơi Thiên Nữ Huyễn Ảo (3),

Tiến nhập mẫu thai công hạnh cung kính lễ.

Tròn đủ mười tháng nam tử dòng Sha-kya,

Lúc đản sinh vườn cát tường Lum-bi-ni (4),

Phạm Thiên, Đế Thích cúi lễ nơi thắng tướng (5),

Định tộc giác ngộ công hạnh cung kính lễ.

Thiếu niên dũng mãnh sư tử trong nhân loại,

Hiển tài nghệ nơi A-gha Ma-ga-dha (6),

Đã khuất phục hết chúng sĩ phu kiêu mạn,

Vô hữu địch thủ công hạnh cung kính lễ.

Hành xử phù hợp các pháp của thế gian,

Vì đoạn tội khổ của nghiệp mà nạp lấy (7)

Hậu phi quyến thuộc, hành phương tiện thiện xảo

Thái Tử hộ quốc công hạnh cung kính lễ.

Thấy rõ chư hành luân hồi không yếu nghĩa,

Trốn khỏi gia trạch du hành qua hư không,

Ở trước Thanh Tịnh Bảo Tháp tự mình làm,

Xuất gia hoàn toàn công hạnh cung kính lễ.

Nghĩ tưởng thành tựu giác ngộ bằng tinh tấn,

Sáu năm bên bờ sông Ne-ra-nja-na (8),

Thực hành khổ hạnh tinh tấn đến tận cùng,

Đắc thắng thiền định công hạnh cung kính lễ.

Để trọn ý nghĩa nỗ lực từ vô thủy,

Dưới cội Bồ Đề ở nước Ma-ga-dha,

Kiết già bất động hiện chứng quả Phật Đà,

Viên thành Chánh Giác công hạnh cung kính lễ.

Lấy đại bi tâm nhanh chóng nhìn chúng sinh,

Thù thắng thánh địa như Va-ra-na-si (9),

Chuyển Diệu Pháp Luân tuỳ cơ giáo hóa chúng,

An trí Tam Thừa công hạnh cung kính lễ.

Vì để đánh bại đối thủ ác tranh biện,

Như bọn lục sư ngoại đạo, chúng Thiên Thụ (10),

Hàng phục chúng ma nơi vùng Diệt Lụy Nữ (11),

Năng Nhân thắng các chiến đấu cung kính lễ.

Bởi vô tỷ dụ phẩm hạnh trong Tam Giới,

Hữu Sở Văn quốc (12) thị hiện đại thần thông,

Hết thảy thiên, nhân, chúng sinh đồng cúng dường,

Hưng thịnh Giáo Pháp công hạnh cung kính lễ.

Vì để khích lệ nhanh chóng chúng giải đãi,

Nơi Thượng Mao Thành (13) trên đại địa thanh tịnh,

Thân như kim cang bất tử đã viên tịch,

Khế nhập Niết Bàn công hạnh cung kính lễ.

Chân Thật Tánh không hề bị hoại diệt,

Vì muốn chúng sinh tương lai đạt phước đức,

Chính thế hóa hiện rất nhiều xá lợi tử,

Tám phần linh cốt công hạnh cung kính lễ.

 

Chỉ một đoạn kệ (4 câu) đầu tiên của bài trên đây là do Tôn giả Drikungpa trước tác, từ đó trở về sau do Giáo Thọ Sư Long Thọ Bồ Tát sáng tác.

 

 Chú thích:

(*) Một thuật ngữ khác là “Phật hành thập nhị hoằng hóa”, ngụ chỉ hóa thân Phật thị hiện cả một đời trải qua mười hai sự kiện lớn như: 01. Đâu Suất giáng trần, 02. Nhập trụ mẫu thai, 03. Viên mãn đản sinh, 04. Thiếu niên tài nghệ, 05. Thụ dụng phi quyến, 06. Ly gia xuất gia, 07. Nan hành khổ hạnh, 08. Đến Kim Cang Tòa (Bồ Đề Đạo Tràng), 09. Điều phục ma quân, 10. Viên thành Chánh Giác, 11. Chuyển Diệu Pháp Luân, 12. Nhập Đại Niết Bàn.

(1) Thích Ca – họ của Đức Phật Shakya Muni (Phạn ngữ), Tạng dịch Shakya Thubpa tức Shakya Năng Nhân, phiên âm từ Hán Việt là Thích Ca Mâu Ni. (2) Ngụ chỉ Đức Phật lựa chọn thời Hiền Kiếp này, khi con người có tuổi thọ một trăm, là thời cơ thích đángthực hành sự nghiệp quảng đạitrở thành hỗ chủ của chúng sinh. (3) Mayadevi - Tên của hoàng hậu Ma Da, thân mẫu của Đức Phật. (4) Vườn Lâm Tỳ Ni. (5) Ngụ chỉ Đức Phật có ba mươi hai tướng thù thắng. (6) Ở Ngang Tạp thuộc nước Ma Kiệt Đà. (7) Ngụ chỉ đoạn trừ những lời phỉ báng. (8) Sông Ni Liên Thiền. (9) Vườn Lộc UyểnBa La Nại. (10) Devadatta – Đề Bà Đạt Đa. (11) Phiên âm Tạng ngữ: Khorma Jig. (12) Sravasti – Nước Xá Vệ. (13) Kushinagara – Thành Câu Thi Na.

 

 

TÁN THÁN CÔNG HẠNH BỔN SƯ NĂNG NHÂN VƯƠNG

 

 buddhasadhana-04

Tôn tượng Đức Phật trong Tháp Đại Giác tại Bồ Đề Đạo Tràng

 

Khi Ngài, Tôn Chủ Chúng Lưỡng Túc đản sinh,

Nơi đại địa này xuất chân đi bảy bước,

Tuyên thuyết: “Trong thế gian này ta tối thắng”,

Thiện xảo đời này nơi Ngài cung kính lễ.

Đầu tiên từ cõi Đâu Xuất Thiên giáng lâm,

Tiến nhập thai tạng thân mẫu nơi vương cung,

Vườn Lâm Tỳ Ni, Năng Nhân hiện đản sinh,

Thế Tôn Thiên của Chư Thiên cung kính lễ.

Trong Việt Lượng Cung tám bốn bảo mẫu dưỡng,

Niên thiếu vui đùa cung thành tộc Thích Ca,

Ca Tỳ La thành Thái tử nạp vương phi,

Tam Giới vô đẳng Phật thân cung kính lễ.

Nơi bốn cổng thành trình hiện lý ưu não,

Cắt tóc xuất gia trước Bảo Tháp Thanh Tịnh,

Sông Ni Liên Thiền bên bờ hành khổ hạnh,

Viễn ly hai chướng, tội cấu cung kính lễ.

Trong Vương Xá thành điều phục voi lớn điên,

Thành Tỳ Xá Ly khỉ con dâng ong mật,

Nước Ma Kiệt Đà, Năng Nhân hiện Chánh Giác.

Trí Giả trí tuệ chiếu sáng cung kính lễ.

Thành Ba La Nại xoay chuyển Diệu Pháp Luân,

Tại vườn Kỳ Đà thị hiện đại thần thông,

Câu Thi Na thành tác ý Nhập Niết Bàn,

Thế Tôn tâm như hư không cung kính lễ.

Như vậy, Tôn Chủ Giáo Pháp - Hoại Hữu Xuất,

Nơi lý công hạnh khái quát xưng tán thán,

Do thiện nghiệp nguyện hành xử của chúng sinh

Ngang bằng công hạnh của Ngài, Đấng Thiện Thệ.

 

Bài tán thán công hạnh Đức Bổn Sư của chúng ta đây do Giáo Thọ Sư Mã Minh trước tác.

 

 [Kỳ nguyện:]

 

Như Lai Thiện Thệ thân Ngài như thế nào,

Quyến thuộc, Thọ hạn cùng với Thanh tịnh thổ,

Hảo tướng thù thắng của Ngài như thế nào,

Nguyện chúng con đắc chân thật đúng như thế.

Do nơi oai lực xưng tán, cầu thỉnh Ngài,

Chúng con dù trú địa phương nào thì đó,

Tật bệnh, bần cùng, chiến tranh tất tịch trừ,

Kỳ nguyện Phật Pháp quảng bố, tăng kiết tường.

Tôn Sư Phật Đà quang lâm trong thế giới,

Giáo Pháp toả sáng đồng như ánh thái dương,

Đồ Chúng Trì Pháp lưu truyền cùng hưng thịnh,

Giáo Pháp trường cửu, trụ thế nguyện kiết tường.

 

 [Hồi hướng:]

 

Phát tâm theo Đấng Thiện Thệ, chư Trưởng Tử,

Lý của công hạnh, kỳ nguyện, bi, trí, dũng,

Trí tuệ vô thượng, thần thông như thế nào,

Nguyện hết chúng sinh chứng đắc đúng như thế.

[Bài hồi hướng này] do Ngài Mipham.

 

Tâm Bồ Đề thù thắng đại bảo,

Nơi chưa sinh thì hãy phát sinh.

Đã sinh rồi cũng không suy tàn,

Nguyện tăng cao lại càng cao hơn.

 

 

 Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn, trích trong quyển “Kinh tụng Đại kỳ nguyện Đoàn kết Sham-bha-la” được tổ chức hằng năm tại Golok, do Ngài Hungka Dorje chủ trì, và cũng được tìm thấy trong một số Kinh tụng nghi quỹ khác. Nghi quỹ này cũng thường được Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, cũng như Ngài Tulku Pema Wanggyal truyền dạy và khuyến khích thực hành.

 

 Người dịch, Ngữ Lực Giới Hiền, với mong muốn chuyển dịch theo thể kệ tụng để quý vị Phật tử gặp khó khăn trong việc tụng đọc phiên âm Tạng ngữ có thể thực hành tu tập hằng ngày. Để có được cơ hội nhận sự ban phước không thể nghĩ bàn của Chư Phật như trong tu Pháp nghi quỹ này có giảng dạy. Chính vì vậy người dịch không ngại đem tài thô học thiển, đã cố gắng hết mình bạo dạng chuyển dịch sang Việt ngữ sao cho thật sát nghĩa, tuy nhiên chắc chắn là không thể trọn vẹn hết ẩn ý bên trong, nếu có chỗ sai sót xin thành tâm sám hối.

 

 Chỉ còn vài ngày nửa là đến đầu tháng 4 Âm lịch, mùa Phật đản Vesak Phật lịch 2555, Dương lịch 2011, người dịch đã kịp thời hoàn thành bản dịch này với mong muốn dâng phần công đức nhỏ nhoi này cúng dường lên Đức Phật, Đấng Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương, Cha lành của các hàng Bồ Tát, Quân vương của các bậc Thánh nhân. Nguyện hồi hướng công đức này đến sự trường thọ của Chư vị Thánh Tăng Thượng Sư, là các Bậc Trì Pháp lưu truyền Chánh Pháp. Nguyện các Ngài cùng Giáo Pháp trường tồn trụ thế, hoằng Pháp lợi sinh, từ bi cứu độ chúng sinh thoát khỏi nơi biển khổ muôn trùng sóng. Cùng nguyện hết thảy chúng sinh thoát ly luân hồi khổ, đắc được quả vị Bất Thoái Chuyển nơi Vô Thượng Bồ Đề. Nguyện nơi oai lực bất hư của Tam Bảo Phật – Pháp – Tăng xin cho lời nguyện này được chân thật thành tựu. Nguyện kiết tường.


Hạ tải bản văn Tạng Việt
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 216)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(Xem: 215)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng –
(Xem: 338)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(Xem: 687)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(Xem: 684)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(Xem: 802)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(Xem: 773)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(Xem: 1068)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(Xem: 1295)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 1109)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(Xem: 2397)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(Xem: 1781)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(Xem: 3483)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(Xem: 1599)
Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một.
(Xem: 2552)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(Xem: 2321)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(Xem: 1967)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(Xem: 2925)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(Xem: 1997)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(Xem: 2356)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(Xem: 1784)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(Xem: 1669)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(Xem: 2408)
Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok.
(Xem: 1484)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(Xem: 2794)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(Xem: 1847)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(Xem: 3751)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(Xem: 2101)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(Xem: 1938)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(Xem: 2483)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(Xem: 4447)
Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1].
(Xem: 1884)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(Xem: 2795)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(Xem: 1618)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(Xem: 2517)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2607)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2018)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3586)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(Xem: 3037)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(Xem: 1974)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(Xem: 1998)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(Xem: 2329)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(Xem: 2040)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(Xem: 1874)
Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche
(Xem: 2434)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(Xem: 2097)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(Xem: 2136)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(Xem: 2545)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(Xem: 3616)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(Xem: 2182)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(Xem: 3293)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(Xem: 2950)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(Xem: 5229)
Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.
(Xem: 2596)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(Xem: 3883)
Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.
(Xem: 5287)
Hôm nay, chúng ta đều đã đến Vườn Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, Ấn Độ, vùng đất của chư Thánh giả, nơi đã được cúng dường lên Đức Phật.
(Xem: 3827)
Điều đầu tiên mà bạn cần hiểu là mọi hữu tình chúng sinh đang sống trên thế giới này – ‘hữu tình chúng sinh của tam giới của sự tồn tại’ – là một sản phẩm của tâm.
(Xem: 2736)
Khi chúng ta nhìn vào hiện tượng vật chất trong thế giới này, chúng ta thấy rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của nó.
(Xem: 2470)
Guru Rinpoche chào đời tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài sách tấn các đệ tử hãy hoan hỷ bởi Ngài sẽ trở lại là Guru Rinpoche.
(Xem: 2689)
Gần đây, nhiều người hỏi về Khandro Rinpoche tôn quý và những hoạt động tâm linh của Bà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant