Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bài ca thống thiết về sự vô thường

10 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 13392)
Bài ca thống thiết về sự vô thường

BÀI CA THỐNG THIẾT VỀ SỰ VÔ THƯỜNG 

Pháp Vương Jigme Phuntsok
Thanh Liên dịch Việt

khenpo_jigme_phuntsok

Đức Khenpo Jigme Phuntsok

(1937-2004)

 

1. Bậc tạo dựng mạn đà la tụ hội, hóa hiệnbao la của mọi Bổn Tôn, Pháp Vương vô song Mipham Rinpoche, xin an lập chiếc đĩa hoa sen kỳ diệu trong trái tim con và xin hát một cách tự nhiên những bài ca về sự vô thường.

2. Cánh đồng mùa hạ ngập tràn hoa cỏ và vui vẻ như một xứ thần tiên, nhưng đến mùa đông, khi bị sương giá, gió, mưa và băng tuyết tàn phá, ta càng thêm đau buồn bởi cảnh tượng hoang tàn, lạnh lẽo.

3. Trong khu vườn tráng lệ và nhiều màu sắc, những con ong cần cù, đáng yêu nhìn nhau và hát những bài ca êm tai. Mặc dù tất cả mọi người đều ước muốn thời gian tuyệt vời, vui nhộn, và lãng mạn của cuộc đuổi bắt kéo dài mãi mãi, nhưng làm sao họ né tránh được nghiệp quả của những đời trước?

4. Trong khu rừng sum suê, những con chim cu líu lo và hát ca vui vẻ; âm thanh êm tai và trong như tiếng bạc của chúng lôi cuốn mọi người; một sự dâng hiến tuyệt vời! Tuy nhiên, khi sắp đến đầu thu, nếu ta nhớ lại những điều này thì đó quả là một vị Thầy siêu phàm biểu thị sự vô thường của cuộc đời!

5. Qua cơn mưa bụi, một cầu vồng sáng chói và nhiều màu sắc trong bầu trời được tô điểm bằng những đám mây trắng, nhẹ nhàng và tao nhã biết bao! Nếu suy niệm nghiêm cẩn, quý vị sẽ nhận ra đó là một ảo ảnh sâu sắc và sinh động về sự vô thường.

6. Vào mùa thu, những đám mây trắng chồng chất lên nhau thật thân thiết, giống như những đỉnh núi không ngừng phủ tuyết. Ngay lập tức, chúng biến mất trong bầu trời không để lại chút dấu vết. Chẳng phải tất cả những ẩn dụ này là để dành cho những người có ý hướng từ bỏ “Mọi vinh quanghạnh phúc trong đời này đang trôi đi và không xác thực” hay sao?

7. Những vũ trụ kiên cốbao la gồm ba ngàn thế giới sẽ hoàn toàn bị hủy diệt bởi những tai họa của nước, lửa, và gió, vì thế những cung điện, vườn tược và những bức tường được xây dựng bởi chúng sinh tầm thường thì còn khó giữ gìn và không đáng tin cậy hơn nữa.

8. Ngay cả những vị trời và risi (hiền nhân) là những người có thể sống lâu hơn một kiếp, có sự thấu thị và an trụ hỉ lạc trong thiền định cũng không thể trốn thoát và bị trói buộc khi đối diện Thần Chết và những kẻ thù của họ. Thật là một tư tưởng sai lầm và xấu ác khi tin rằng ta có thể tránh khỏi cái chết.

9. Trong quá khứ, có một ít vị được gọi là “Chuyển Luân Thánh Vương” cai trị bốn đại lục và có năng lực kêu gọi hàng trăm người đi vào hành động, nhưng giờ đây những gì họ để lại cho hậu thế chỉ là ký ức về thanh danh trong thời đại huy hoàng của họ. Vì thế, thân thể yếu ớt của chúng ta cũng không thể có chút thực chất nào.

10. Các Đức Như LaiBồ Tát đã hoàn thiện mọi sự tịnh hóa che chướng và đạt được chứng ngộ thì như vô số vì sao trên bầu trời. Tuy nhiên, để biểu thị sự vô thường, các ngài đã lần lượt thị hiện việc nhập niết bàn. Tất cả những hiện tượng này cho ta thấy rõ nguyên lý vô thường.

11. Tại ngôi chùa vĩ đại Samye có viên bảo ngọc được tôn trí trên đỉnh, nơi được tán tháncõi tịnh độ, khi nhớ lại những cảnh tượng sống động của Ba Đấng Tôn quý, các Đạo sư và Đức Vua, (1) tôi không thể không hân hoanvui sướng. Tuy nhiên, khi trở lại với thực tế, làm sao tôi tránh khỏi nỗi buồn sầu, tan nát.

12. Không lắng nghe và quán chiếu đúng đắn về những pho Kinh và Luận siêu việt, là những gì có thể chống cự sự truy xét bằng ba cách, không thể chặt đứt gốc rễ sinh tử bởi chỉ hành động phù hợp với sự suy nghĩước đoán của riêng ta. Trái lại, ta sẽ lập gia đình, có con, và có rất nhiều thành viên trong gia đình, trở nên già yếu; và khi cái chết đến, vị tu sĩ già bị buộc phải tái sinh và đi đến những cõi thấp bởi đã không thực hành đức hạnh.

13. Nếu người không tinh tấn nghiên cứuthực hành Kinh điển, điều huyền diệu và tâm – Kinh Ý nghĩa Cô đọng (Kinh), Mạng lưới Huyền diệu (Pháp Kỳ diệu) và Mười tám Mật điển Mẹ-Con (Tâm); mà chỉ chú ý đến các nghi lễ, chẳng hạn như đánh trống, thổi kèn Trung quốc hay sự trình diễn khác, như ý nghĩa sâu xa của Giáo Pháp; tiêu phí một cách bất thiệntham lam của cải do tín chủ cúng dường; khi cái chết đến, mọi ác hạnh của người ấy sẽ bị phơi bày.

14. Các nhà sư trẻ trong các tu viện thì thông minh và hùng biện biết bao! Quý vị toàn tâm toàn ý khi bám chặt vào việc giảng dạy và tranh luận, nhưng đến khi quý vị nhận được danh hiệu Geshe, tóc quý vị sẽ bạc trắng như những con ốc xà cừ. Mọi hạnh phúc thế tục mà quý vị tận hưởng không thể thoát khỏi số phận phù du của những đóa hoa ưu đàm.

15. Các hành giả bề ngoài hững hờ với công đức của con đường tu tập, chẳng hạn như giới, định và tuệ, mà nhất quyết kiếm tìm lợi lạc của cuộc đời hiện tại! Quý vị không thể đi tới đích ngay cả khi cái chết đến và định luật nghiêm ngặt của Thần Chết không trì hoãn và loại trừ ai!

16. Những ông già bạc tóc và lão suy! Quý ông vẫn đang dự trù kế hoạch cho những tháng năm của đời mình mà không chú ý đến tuổi tác như thể không biết rằng mình như một ngọn đèn bơ cạn kiệt; hành trình của cuộc đời này sắp kết thúc. Sao quý ông không nghĩ rằng bây giờ là lúc chuẩn bị một ít tiền của cho chuyến du hành trong trạng thái trung ấm sau cái chết?

17. Những thanh niên và thiếu nữ tràn đầy sức sống và đang độ thanh xuân! Các bạn tự hào về tuổi trẻ mau chóng của mình và chẳng bao giờ thoáng nghĩ đến cái chết, nhưng không ai biết được khi nào cái chết đến. Khi những sứ giả của Thần Chết đến và tròng giây vào cổ các bạn, các bạn cảm thấy ân hận thì đã quá trễ.

18. Những cô cậu đến tuổi dậy thì tìm thấy ở nhau sự hoàn toàn cảm thông và tâm đầu ý hợp! Các bạn không ngớt trao cho nhau những viên kẹo dưới bụi hồng, nghiêm trang thề thốt sẽ thương yêu nhau mãi mãi, mơ màng sẽ là bạn đồng hành bền vững của nhau và không bao giờ chia cách, nhưng dù các bạn làm gì chăng nữa, không ai có thể tiên đoán được là các bạn sẽ sống lâu đến mức độ nào.

19. Những người giàu có, quý phái và có vận mệnh hoàn hảo trong quá khứ đã trở thành những người cùng khốn. Khi những cảnh tượng này được phóng chiếu rõ ràng trên tấm gương của tâm thức, làm sao ta không cảm thấy thống thiết và mỏi mệt về mọi hiện tượng bị nhiễm ô?

20. Bộ ba mươi chiếc răng trắng trẻo của quý vị đã rụng rơi đây đó. Những vết nhăn phủ đầy thân thể quý vị như những đường núi xoắn xít với nhau. Mọi cảnh tượng của sự già yếu là những cảnh báo lặng thầm: chẳng mấy chốc quý vị sẽ chết. Nếu quý vị vẫn u mê và rối trí, làm sao quý vị có thể khác biệt với những con yak?

21. Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó? Vì thế, đời sau thực sự không quá xa!

22. Một trăm năm nữa, chẳng ai có mặt vào lúc này trên trái đất còn sống. Mọi sự sống buộc phải chết đi. Trong hình tướng mê lầm như giấc mộng phù du này, đâu là ý nghĩa của việc theo đuổi lợi lạc của cuộc đời hiện tại?

23. Hầu hết những người bạn tốt cùng độ tuổi với tôi giờ đã trôi dạt vô định đến những xứ sở khác. Nhiều đời người đã rơi vào bóng tối của trạng thái trung ấm. Làm sao một mình tôi có thể hiện hữu trong thế giới này?

24. Khi những sứ giả toàn thắng của Thần Chết đến, cho dù dấu mình trong một lâu đài không thể bị hủy hoại và hoàn toàn vững chắc, được mười ngàn quân lính trang bị áo giáp và vũ khí canh chừng, ta vẫn không thể sống trong thế giới này dẫu chỉ một chốc lát.

25. Cho dù của cảichâu báu của quý vị có thể bao phủ toàn thể ba cõi, các sứ giả của Thần Chết không để cho quý vị hối lộ. Ngay cả Phạm ThiênTrời Đế Thích cai trị ba ngàn thế giới cũng không thể thoát khỏi cái chết.

26. Cho dù quý vị có vẻ duyên dángdễ thương như một cầu vồng ở chân trời, dù quý vị có khêu gợi và hấp dẫn với đủ mọi khéo léo để tán tỉnh, phỉnh phờ và lôi kéo, thủ thuật của quý vị không thể làm lay động ngay cả một sợi lông của đạo quân Thần Chết khát máu.

27. Sau khi chứng kiến nhiều người, dù đau ốm hay khỏe mạnh, đã lần lượt ra đi, ta nên nghĩ tưởng và suy niệm một cách cẩn trọng theo cách này: tất cả những điều này là hồi chuông cảnh báo và thúc bách về sự chắc chắn của cái chết của riêng tôi, vì thế tôi phải chuyển tâm vào con đường vĩ đại của thực hành tinh tấn để đạt được giải thoát.

28. Những vị lãnh đạo và viên chức vĩ đại cai trị hàng trăm và hàng ngàn gia đình của nhiều bộ tộc! Khi cái chết đến, quý vị không có tự do để đem theo mình một miếng thực phẩm, còn nói gì đến việc mang theo thuộc hạ. Vào lúc đó, chỉ có Giáo Pháp chân chínhsiêu việttuyệt đối lợi lạc, vì thế xin đừng mãi trì hoãnlãng phí thời gian.

29. Khi mọi hiện tượng trong đời này hoàn toàn ngừng dứt, đau khổ xuất hiện như kết quả của nghiệp, cho dù quý vị có bao nhiêu người thân, bè bạn và người đồng hành, chẳng ai có thể chia sẻ chút nào với quý vị. Cho dù quý vị kêu khóc cho đến khi mặt đẫm lệ, điều ấy chẳng mang lại sự thay đổi hay giúp đỡ nào. Chớ để cái chết đánh bại, mà từ nay trở về sau hãy hiến mình cho việc thực hành Pháp, là điều mang lại lợi lạc vào lúc chết! 

30. Nhờ suy niệm nghiêm cẩn, quý vị sẽ nhận ra rằng mọi hiện tượng của thế giới vật chất bên ngoài và thế giới chúng sinh bên trong là những quyển sách giáo khoa biểu thị sự vô thường của cuộc đời. Những tình cảm phóng xuất tự nhiên từ trái tim tôi thì vô vàn, nhưng ở đây tôi chỉ có thể hiến tặng quý vị một bài ca Giáo pháp như mây cho quý vị, những người bạn thân thiết của tôi!

31. Những người bạn thân mến trong cùng một trại! Hãy bảo đảm là sẽ liên tục lắng nghe điều này: mọi sự trong luân hồi sinh tử thật không đáng tin cậy. Để đạt được sự giàu có lâu dài, hoàn hảo và không ô nhiễm của đại lạc, từ nay trở đi, quý vị nên mặc áo giáp tinh tấn để toàn tâm thực hành Giáo Pháp! 

32. Từ nay cho đến khi không gian diệt tận, cầu mong con có thể kính lễ vị Bảo trợ - Đức Văn Thùkhông thối chuyển; cùng lúc đó, giảng dạy Giáo Pháp sâu xa cho chúng sinhđạt được trí tuệnăng lực tâm thức như Đấng Chiến Thắng Văn Thù!

 

Trên đây là 32 vần kệ, một con số kỳ diệu, là những cảm xúc chân thành phóng chiếu tự nhiên từ trái tim tôi. Những lời thỉnh cầu liên tục của Otse Yana, một người bạn tốt, là thuận duyêntâm từ bỏ mãnh liệt đối với sự vô thường trong tâm tôi là nguyên nhân sâu xa khiến tôi, Ngawang Lodro Tsungmed, biên soạn bài kệ này vào ngày 27 tháng Giêng năm 1964. Cầu mong đó là điều kiết tường!

Chú thích:

(1) Ba Đấng Tôn quý, các Đạo sư và Đức Vua: Đức Padmasambhava, Shantarakshita và Vua Trisong Detsen.

Nguyên tác: “The Lament That Teaches the Impermanence of Life - the Melodious Sound of a Waterfall” by Dharma King Jigme Phuntsok

http://www.khenposodargye.org/2013/04/the-lament-that-teaches-the-impermanence-of-life-the-melodious-sound-of-a-waterfall/

Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 270)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(Xem: 272)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng –
(Xem: 376)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(Xem: 751)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(Xem: 730)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(Xem: 848)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(Xem: 819)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(Xem: 1114)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(Xem: 1342)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 1134)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(Xem: 2434)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(Xem: 1826)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(Xem: 3526)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(Xem: 1657)
Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một.
(Xem: 2591)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(Xem: 2358)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(Xem: 2009)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(Xem: 2967)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(Xem: 2052)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(Xem: 2392)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(Xem: 1821)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(Xem: 1710)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(Xem: 2448)
Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok.
(Xem: 1523)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(Xem: 2826)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(Xem: 1871)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(Xem: 3803)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(Xem: 2127)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(Xem: 1968)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(Xem: 2520)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(Xem: 4496)
Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1].
(Xem: 1928)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(Xem: 2823)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(Xem: 1654)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(Xem: 2555)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2643)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(Xem: 2038)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3620)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(Xem: 3077)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(Xem: 2005)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(Xem: 2052)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(Xem: 2382)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(Xem: 2073)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(Xem: 1919)
Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche
(Xem: 2463)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(Xem: 2134)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(Xem: 2160)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(Xem: 2574)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(Xem: 3649)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(Xem: 2229)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(Xem: 3330)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(Xem: 3004)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(Xem: 5277)
Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.
(Xem: 2622)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(Xem: 3906)
Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.
(Xem: 5327)
Hôm nay, chúng ta đều đã đến Vườn Cấp Cô Độc ở thành Xá Vệ, Ấn Độ, vùng đất của chư Thánh giả, nơi đã được cúng dường lên Đức Phật.
(Xem: 3861)
Điều đầu tiên mà bạn cần hiểu là mọi hữu tình chúng sinh đang sống trên thế giới này – ‘hữu tình chúng sinh của tam giới của sự tồn tại’ – là một sản phẩm của tâm.
(Xem: 2786)
Khi chúng ta nhìn vào hiện tượng vật chất trong thế giới này, chúng ta thấy rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của nó.
(Xem: 2518)
Guru Rinpoche chào đời tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài sách tấn các đệ tử hãy hoan hỷ bởi Ngài sẽ trở lại là Guru Rinpoche.
(Xem: 2732)
Gần đây, nhiều người hỏi về Khandro Rinpoche tôn quý và những hoạt động tâm linh của Bà.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant