Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Dòng Truyền Thừa Mahamudra Drikung Kagyu

19 Tháng Sáu 201421:48(Xem: 10881)
Dòng Truyền Thừa Mahamudra Drikung Kagyu

DÒNG TRUYỀN THỪA MAHAMUDRA (ĐẠI ẤN)
DRIKUNG KAGYU


Ba Dòng Suối Truyền thừa tụ hội thành Dòng Drikung Kagyu
Thanh Liên dịch

drikung_kagyu_2drikung_kagyu_1

Thanka Chi tiết về Dòng Truyền thừa Thanka Vắn tắt về Dòng Truyền thừa

Sự Truyền thừa

(Ba Dòng Truyền thừa nhập thành Một)

A. Dòng Thực hành Sâu xa

Đức Phật Di Lặc truyền cho Asanga (Vô Trước), tiếp tục truyền cho Vasubandhu (Thế Thân), tới Arya Namdrole, Namdrol De, Chokgi De, Dulwai De, Khenpo Yangdak Namnangze, tới Sengha Badra, Rinchen Zangpo, Rata Pranapala, Gunamaitra, Atisha, tới Gampopa, Phagmo Drupa, tới Đức Jigten Sumgon (vị sáng lập dòng Drikung Kagyu) cho tới các vị hộ trì dòng truyền thừa hiện tại Chokyi Jugne (Chuntsang Rinpoche Hiện tại) và Thinley Lhundrub (Chetsang Rinpoche Hiện tại).

B. Dòng Quan kiến Sâu xa

Arya Nagarjuna (Thánh Long Thọ) truyền cho Chandrakirti (Nguyệt Xứng), tiếp tục truyền cho Rigpe Khuchuk, tới Kusali Lớn, tới Kusali Nhỏ, Atisha, Gampopa, Phagmo Drupa, Đức Jigten Sumgon (vị sáng lập dòng Drikung Kagyu) cho tới các vị hộ trì dòng truyền thừa hiện tại Chokyi Jugne (Chuntsang Rinpoche Hiện tại) và Thinley Lhundrub (Chetsang Rinpoche Hiện tại).

C. Dòng Kinh nghiệm Thiền định Gia hộ Sâu xa

Đức Phật Kim Cương Trì truyền cho Thành tựu giả Tilopa, tiếp tục truyền cho Thành tựu giả Naropa, tới Dịch giả Marpa, tới Đức Jetsun Milarepa, Lharje Gampopa (Dhagpo), Phagmo Drupa, Đức Jigten Sumgon (vị sáng lập dòng Drikung Kagyu) cho tới các vị hộ trì dòng truyền thừa hiện tại Chokyi Jugne (Chuntsang Rinpoche Hiện tại) và Thinley Lhundrub (Chetsang Rinpoche Hiện tại). Xem bảng ở bên trái….

drikung_kagyu_3


Gi
ới thiệu Ngắn gọn Dòng Drikung Kagyu

Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước. Dòng này được truyền trực tiếp từ Đức Phật Thích Ca Mâu NiĐức Phật nguyên thủy Kim Cương Trì (Vajradhara). Tất cả những Giáo pháp cao quý từ ba dòng truyền thừa đi đến Gampopa qua những Đạo sư hoàn toàn giác ngộ. Dòng thứ nhất được gọi là Dòng Chứng ngộ Gia trì Cao quý. Từ Đức Kim Cương Trì, nó được truyền cho Tilopa, từ Tilopa truyền tới Naropa, từ Naropa tới Marpa, từ Marpa tới Milarepa, và sau đó từ Milarepa tới Gampopa. Dòng truyền thứ hai được gọi là dòng Quan kiến Sâu xa. Dòng này đến từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và được truyền cho Nagarjuna (Long Thọ), rồi tới Chandrakirti v.v… tiếp tục tới Atisha, và sau đó từ Atisha tới Gampopa. Dòng truyền thứ ba được gọi là dòng Thực hành Tuyệt hảo. Nó đến từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và được truyền cho Manjushri (Văn Thù), từ Manjushri tới Maitreya (Di Lặc), từ Maitreya tới Asanga (Vô Trước) v.v… tiếp tục tới Atisha, và sau đó từ Atisha tới Gampopa. Gampopa nhận lãnh những giáo lý sâu xa, những khẩu truyền bí mật, các gia hộ v.v… của cả ba dòng truyền này. Sau đó tất cả những giáo lý này được Gampopa trao cho Phagmo Drupa. Mặc dù dòng Kagyu đến từ cùng một cội gốc, nhưng vào lúc đó dòng truyền thừa Kagyu được phân chia thành các nhánh khác nhau, mỗi nhánh bao gồm những giáo lý viên mãn và những gia trì giác ngộ. Như cây như ý có một cội gốc nhưng được phân chia thành những nhánh khác nhau, mỗi nhánh mang lại nhiều hoa trái kỳ diệu. Mặc dù Phagmo Drupa có hàng trăm ngàn đệ tử, Đức Jigten Sumgon là một trong những đệ tử thân thiếtchính yếu của ngài. Phagmo Drupa đã tiên tri rằng giáo lý và những gia hộ sẽ được tiếp nối bởi một Bồ Tát (Jigten Sumgon), người đã đạt được Thập Địa. Từ Phagmo Drupa, Jigten Sumgon đã nhận lãnh toàn bộ giáo lý, khẩu truyền bí mật, những giảng dạy và nhập môn, và những gia trì chứng ngộ v.v… Jigten Sumgon đã ban toàn bộ giáo lý, kể cả Sáu Yoga của Naropa, cho Gurawa Tsultrim Dorje, đệ tử chính yếu của ngài. Tất cả những năng lực, gia trìgiáo lý giác ngộ này được truyền xuống qua những Đạo sư tâm linh vĩ đại tới các vị hộ trì dòng truyền thừa thứ 37 và 36 hiện tại là Đức Drikung Kyabgon Chetsang Rinpoche và Đức Drikung Kyabgon Chungtsang. Hai vị này nằm trong số những Đạo sư tâm linh tôn quý nhất trong dòng truyền thừa Kagyu và vị hộ trì dòng truyền trực tiếp của Jigten Sumgon. Trong số các đệ tử của ngài, Đức Jigten Sumgon đã tiên tri nhiều lần: “Trong tương lai, giáo lý của ta sẽ phát triển nhờ hai Bồ Tát như mặt trờimặt trăng bởi lòng bi mẫntrí tuệ của họ.” Đức Chetsang Rinpoche như mặt trời, ngài là hiện thân của Bổn Tôn bi mẫn Quán Thế Âm. Đức Chungtsang Rinpoche như mặt trăng, là hiện thân của Bổn Tôn trí tuệ Văn Thù.

Dòng Drikung nổi danh nhờ Thực hành Phowa (Chuyển di Tâm thức) Vĩ đại và bởi các đại thiền giả. Có nhiều câu chuyện về những bậc đã đạt được giác ngộ trong một đời. Trong thập niên 1980, các hành giả vĩ đại dòng Drikung giảng dạy ở Tây TạngẤn Độ là Pachung Rinpoche và Khyunga Rinpoche, và những bậc Thầy vĩ đại khác. Khyunga Rinpoche đã đạt được chứng ngộ Bổn Tôn. Ngài đã diện kiến Chakrasamvara trong một đời người. Ngài giảng dạy nhiều khóa nhập thất ba năm, kể cả Sáu Yoga của Naropa. Trong thời gian đó có nhiều cảm hứng phi thường do các Đạo sư nhập thất vĩ đại này ban tặng. Ngay cả ngày nay cũng có những Thiền Sư vĩ đại của dòng Drikung như Garchen Rinpoche, Tenzin Nyima Rinpoche, và Druwang Rinpoche. Druwang Rinpoche đã chứng ngộ Đại Ấn cao cấp và nổi danh về sự nhiệt tâm và việc hát những bài ca tâm linh như Đức Milarepa. Đôi khi ngài dâng một bài chứng đạo ca thâm sâu lên Đức Đạt Lai Lạt Ma, hai vị Kyabgon Hộ trì dòng Drikung và những Đạo sư cao cấp khác. Có nhiều vị Thầy vĩ đại nhập thấtTây TạngẤn Độ đã đạt được mục đích của mình. Đức Kyabgon Chetsang Rinpoche đã thiết lập Viện Drikung Kagyu, Jang Chubling, ở Dehra Dun, miền Bắc Ấn Độ. Ở đó có nhiều tu sĩ tham dự việc học tập và nhiều vị dấn mình vào khóa nhập thất ba năm. Đức Kyabgon Chetsang Rinpoche du hành tới nhiều tu viện Drikung ở Ladakh, Ấn Độ, và Nepal, ban những giáo lý vĩ đại cho các tăng, ni và cư sĩ đến từ Tây phươngĐông phương.

Con Đường Đại Ấn Sâu xa Năm Nhánh của Dòng Drikung Kagyu Vinh quang

Trong truyền thống Kagyu của Phật giáo Tây Tạng, Mahamudra hay “Đại Ấn” được coi là tinh túy của Phật giáo. Đôi khi nó cũng được nhắc đến như giáo lý tối thượngsâu xa nhất của chư Phật. Đôi khi pháp Đại Ấn này được so sánh với Dzogchen (Đại Viên mãn) – tinh túy của Phật giáo theo dòng Nyingma. Thật không ngạc nhiên khi trong lịch sử Phật giáo Tây Tạng đã có nhiều nhân vật giảng dạy sự tổng hợp hay hợp nhất của Đại Ấn và Đại Viên mãn. Những vị Thầy khác đã thông suốt cả hai pháp này nhưng giảng dạy chúng một cách riêng biệt cho những đệ tử khác nhau khi các ngài thấy thích hợp. Nhưng đa số các vị Thầy đã tập trung vào việc thông suốt pháp Đại Viên mãn hay Đại Ấn.

Ta có thể truy nguyên dòng truyền thừa Đại Ấn theo “dòng-xa” cũng như “dòng-gần.” “Dòng xa” được truy nguyên từ các vị hộ trì hiện tại của dòng truyền thừa sâu xa này trở ngược tới Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lịch sử. Trái lại “dòng gần” được truy nguyên từ các vị hộ trì hiện tại trở ngược tới các Đại Thành tựu giả Ấn Độ như Saraha, Maitripa, Tilopa và Naropa, là những vị đã trực tiếp thọ nhận Đại Ấn từ Đức Phật Kim Cương Trì. Tuy nhiên, cũng nên nói rõ là mặc dù những Đại Thành tựu giả Ấn Độ này trực tiếp thọ nhận giáo lý Đại Ấn từ Đức Phật Kim Cương Trì (và vì thế là một phần của “dòng-gần”), các ngài cũng là những vị hộ trì của “dòng-xa” bởi các ngài cũng nhận giáo lý Đại Ấn từ những bậc Thầy trong loài người là những vị hộ trì của “dòng-xa” này. Vì thế, các dòng Đại Ấn đang được hộ trì bởi những dòng truyền thừa Kagyu khác nhau là những dòng truyền thừa “xa” cũng như dòng truyền thừa “gần”. Cần nói rõ là các dòng Đại Ấn cũng được thành lập trong truyền thống Gelug bởi trong quá khứ vài Đạo sư của truyền thống này cũng thọ nhận các giáo huấn Đại Ấn từ các vị hộ trì Đại Ấn trong truyền thống Kagyu. Dòng truyền thừa Đại Ấn này được gọi là dòng “Đại Ấn Kagyu-Gelug” – đôi khi được dịch là dòng “Đại Ấn Gelug Thì thầm” hay dòng “Đại Ấn Gelug Khẩu truyền.”

Hầu hết các dòng truyền thừa Đại Ấn Kagyu xuất phát từ giáo lý Đại Ấn do Gampopa (1079-1153) ban cho các đệ tử của ngài. Bản thân Gampopa thọ nhận Đại Ấn từ Đạo sư gốc Milarepa (1052-1135), Milarepa nhận nó từ Bổn sư Marpa (1012-1096). Marpa là người Tây Tạng đã du hành tới Ấn Độ và Nepal và nhận nhiều giáo lý từ các Đại Thành tựu giả Ấn Độ - những vị Thầy quan trọng nhất là Naropa và Maitripa đã truyền cho Marpa toàn bộ giáo lý về nền tảng, con đường và quả của Đại Ấn. Chính Gampopa đã kết hợp những giáo lý sâu xa của Đại Ấn với phương pháp thực hành tuần tự như truyền thống Kadampa giảng dạy. Học giả Atisha người Ấn Độ đã sáng lập truyền thống Kadam ở Tây Tạng. Gampopa là một tu sĩ trong truyền thống Kadam trước khi trở thành đệ tử của Milarepa. Mặc dù có nhiều cuộc thảo luận uyên thâm trong lịch sử Phật giáo Tây Tạng về cấp độ và các thể loại của Đại Ấn, dường như Gampopa chủ yếu tán thành hai cách tiếp cận Đại Ấn có thể chấp nhận được. Theo Gampopa, Đại Ấn có thể được tiếp cận qua con đường Kinh điển cũng như con đường tantra (Mật điển). Vì thế, ta có Đại Ấn-Kinh điển và Đại Ấn-Mật điển. Đôi khi Gampopa được cho là đã giảng dạy phương pháp thứ ba để đến với Đại Ấn, là cách tiếp cận không dựa trên Kinh điển mà cũng không dựa trên Mật điển.

Các Đạo sư Dòng Truyền thừa Kagyu – Tilopa, Naropa và Marpa

Từ Gampopa trở đi, nhiều dòng truyền Đại Ấn bắt đầu hình thành phù hợp với những loại Đại Ấn khác nhau do Gampopa và các vị kế thừa tâm linh giảng dạy. Một vài truyền thống Đại Ấn có thể được truy nguyên từ Gampopa hay các hậu duệ của ngài là truyền thống “Tạo tác và Hợp nhất Đồng thời,” “Sáu Vị Như nhau,” “Bốn Chữ” và “Con Đường Sâu xa Năm Nhánh.” Những truyền thống này vẫn được hộ trì bởi bốn dòng truyền thừa Kagyu còn tồn tại, đó là Karma, Taglung, Drukpa và Drigung Kagyu.

Trong dòng Drigung Kagyu, hệ thống Đại Ấn chính yếu là hệ thống được gọi là “Con Đường Đại Ấn Sâu xa Năm Nhánh” hay cũng được gọi là “Năm Sở hữu.” Mặc dù bản thân Gampopa cũng đã giảng dạy phương pháp Đại Ấn đặc biệt này, tên gọi của nó do vị kế thừa của ngài là Phagmo Drupa (1110-1170), bổn sư của Kyobpa Jigten Sumgon, vị sáng lập dòng Drigung Kagyu, ban cho. Mặc dù hệ thống Con Đường Sâu xa Năm Nhánh này chủ yếu do những hành giả dòng Drigung Kagyu nắm giữ, bản thân Phagmo Drupa cũng biên soạn một bản văn về hệ thống này tên là “Những vần Kệ về Con Đường Năm Nhánh.” Các Đạo sư của Trophu Kagyu (dòng Kagyu đặc biệt này không còn tồn tại như một dòng độc lập) và dòng Taglung Kagyu cũng đã viết về hệ thống đặc biệt này. Gyalwa Yang Gonpa, một vị Thầy của dòng Drukpa Kagyu đã viết “Giọt Cam lồ: Con Đường Năm Nhánh.” Đức Toàn trí Pema Garpo của dòng Drukpa Kagyu cũng viết về hệ thống này trong tác phẩm “Cốt tủy của Tâm.” Situ Chokyi Jungne cũng viết những luận giảng rộng lớn về Con Đường Sâu xa Năm Nhánh. Trong “Lời Giới thiệu” cho quyển sách “Vòng Hoa các Thực hành Đại Ấn,” (bản dịch “Minh giải Chuỗi Ngọc của Con Đường Sâu xa Năm Nhánh” của Gylwang Kunga Rinchen [1475-1527], Đức Drigung Kyabgon Chetsang Rinpoche đã nói rõ là ngày nay những người nương tựa vào hệ thống này hầu như đi theo những luận giảng của Drigung Dharmakirti. Trong quá khứ, nhiều vị Thầy Drigung Kagyu khác cũng biên soạn những luận giảng lớn về hệ thống Đại Ấn này. Tất nhiên là bản thân Kyobpa Rinpoche cũng biên soạn vài bản văn và nhiều bài ca về chủ đề này.

Pháp Vương Gampopa

Như thế theo hệ thống này, năm “nhánh” của con đường Đại Ấn sâu xa này là:

1) Bồ đề tâmý hướng vị tha giải thoát tất cả chúng sinh khỏi sinh tử,
2) Bổn Tôn – thực hành quán tưởng bản thân hành giả như một bậc giác ngộ siêu việt

3) Đạo sư du giàcố gắng hợp nhất với tâm trí tuệ của Đạo sư,

4) Đại Ấn – việc dấn mình thực sự vào pháp Đại Ấn và cuối cùng,
5) Hồi hướng – sự hồi hướng trọn vẹn những đức hạnh của hành giả.

Trước khi có thể bắt đầu dấn mình vào các thực hành được trình bày trong hệ thống này, trước hết ta cần tập trung vào những thực hành căn bản. Thực hành “nhánh” đầu tiên đảm nhận việc ưu tiên hoàn thành điều được gọi là “các thực hành căn bản” (TT: ngondro). Những thực hành căn bản này được phân chia thành các thực hành ngoại và nội. Những thực hành ngoại căn bản ám chỉ “Bốn Tư tưởng Chuyển Tâm” do Gampopa giảng dạy. Các tư tưởng này củng cố trong dòng tâm thức của ta bốn sự thấu hiểu về:

1) sự may mắn được sinh ra làm người quý báu,

2) tính chất phổ quát của lẽ vô thường,

3) vận hành không sai lạc của nhân và quả, và

4) không mãn nguyệnbản tánh của sinh tử.

Sau khi đã củng cố nền tảng vững chắc về bốn tư tưởng này trong dòng tâm thức của ta, ta có thể bắt đầu dấn mình vào những thực hành nội căn bản. Đó là:

1) quy y, xác nhậncủng cố hứa nguyện của ta đối với Tam Bảo,
2) tịnh hóa Kim Cương Tát Đỏa để tiệt trừ ác nghiệp và những dấu vết nghiệp của ta,

3) cúng dường mạn đà la để tích tập sâu xa công đức cần thiết cho việc thành tựu Phật quả viên mãn

4) Đạo sư-du già để nhận sự cảm hứng-gia trì của các Đạo sư gốc và Đạo sư dòng truyền thừa.

Chỉ sau khi hoàn tất những thực hành này (bốn thực hành, mỗi thực hành 100.000 lần), ta mới chính thức bắt đầu nhánh thứ nhất của Con Đường Sâu xa-Năm nhánh, đó là Bồ đề tâm.

Trong một bài ca-kim cương (trong rất nhiều bài) của ngài, Kyobpa Rinpoche đã hát về Bồ đề tâm:

“Nếu con ngựa của lòng từ và bi

Không chạy vì lợi ích của chúng sinh,
Nó sẽ không được tập hội trời và người tôn kính.
Vì thế hãy chú tâm vào các thực hành chuẩn bị.”

Drigung Kyobpa Rinpoche

Bồ đề tâm được định nghĩa ngắn gọn là “ý hướng vị tha giải thoát tất cả chúng sinh khỏi sinh tử.” Bồ đề tâm rất thường bị lầm lẫn với lòng bi mẫn. Mặc dù lòng bi mẫn là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong việc phát triển Bồ đề tâm nhưng tự nó không phải là Bồ đề tâm. Sự khơi dậy Bồ đề tâm bắt đầu bằng cách trước hết chú tâm vào việc phát triển lòng từ ái đối với tất cả chúng sinh. Người ta nói rằng từ áicảm xúc ta có khi nhìn một đứa trẻ mới sinh. Khi ta nhìn một em bé, ta thường tự động có những tư tưởng tốt lànhthân thiết đối với đứa trẻ. Thật tự nhiên, ta ước muốn được đứa bé được bình an, hạnh phúc và không bị mọi họa hại. Không có gì dễ chịu hơn khi được nhìn thấy một đứa trẻ đang ngủ ngon lành. Chính sự ấm áp và tình thươngđiều kiện đó mà ta đang cố gắng phát triển cho tất cả chúng sinh. Chúng ta cố gắng coi tất cả chúng sinh như con cái của chính mình, là những người mà ta yêu thươngđiều kiện. Ta cầu nguyện họ được che chở, được hạnh phúc và yên bình và vì họ ta sẵn lòng từ bỏ cuộc đời của mình. Khi ta có thể cảm nhận theo cách này đối với tất cả chúng sinh, ta sẽ có thể phát triển lòng bi mẫn một cách tự nhiên. Lòng bi mẫncảm xúc mong muốn giải thoát chúng sinh khỏi đau khổ và những nguyên nhân của đau khổ. Đó là cảm xúc ta có khi ta gặp người nào đó đang đau khổ bởi một chứng bệnh khủng khiếp hay đang phải trải qua nỗi khổ dữ dội về mặt thể xác và cảm xúc. Ta muốn có thể giúp đỡ và làm an dịu nỗi khổ đó, khổ đau đó. Như thế khi đã phát triển và nuôi dưỡng lòng từ và bi, ta có thể đi tới chỗ sẵn sàng thực sự phát triển Bồ đề tâm.

Như được định nghĩa trước đây, Bồ đề tâm là “ý hướng vị tha giải thoát tất cả chúng sinh khỏi sinh tử.” Khi nhận ra rằng chúng sinh hoàn toàn bị khổ đau sai sử trong sinh tử, ta có được một nhận thức sâu xa rằng chỉ bằng cách đạt được trạng thái Phật quả viên mãn thì ta mới có thể chiến thắng được khổ đau trong sinh tử một lầnmãi mãi. Mặc dù có nhiều cách để làm an dịu nỗi khổ của chúng sinh, nhưng tất cả những phương pháp đó đều tạm thời và không rốt ráo. Chỉ bằng cách nhổ tận gốc nguyên nhân của đau khổ thì ta mới hoàn toàn thoát khỏi đau khổ. Và đây là trạng thái giải thoát tối hậu; Phật quả viên mãn. Sự thấu suốt này – sự thấu hiểu những khiếm khuyết, nguyên nhân, sự chấm dứtcon đường để chấm dứt sinh tử, chính là trí tuệ. Vì thế, ở một mặt, Bồ đề tâmquyết tâm phát khởi từ lòng từ và bi và mặt khác nó phát khởi từ trí tuệ. Khi cả hai phương diện này tụ hội thì Bồ đề tâm được phát triển.

Tiết mục thứ hai của Con Đường Sâu xa Năm-nhánh là thực hành Bổn Tôn. Thực hành Bổn Tôn ám chỉ các thực hành phát triển và thành tựu của Mật điển du già tối thượng và trong trường hợp đặc biệt này trong hệ thống Mật điển du già tối thượng của giáo khóa Chakrasamvara. Mặc dù Bổn Tôn chính yếu của Marpa là Hevajra, Đạo sư Naropa của ngài đã tiên đoán rằng cuối cùng dòng truyền của Marpa sẽ nương tựa vào Chakrasamvara như Bổn Tôn chính yếu. Vì thế, Chakrasamvara là thực hành chính yếu mà Marpa đã truyền cho đệ tử chính của ngài là Milarepa.

Chakrasamvara


Có nhiều thân tướng khác nhau của Chakrasamvara xuất hiện với số gương mặt, bàn tay khác nhau, và số vị trong đoàn tùy tùng bao quanh. Trong dòng Drigung Kagyu, thực hành Bổn Tôn Chakrasamvara phổ biến và thông thường nhất là thân tướng của Chakrasamvara Năm-Bổn Tôn. Chakrasamvara Năm-Bổn Tôn bao gồm Bổn Tôn Chakrasamvara nam chính yếu có hai tay, một mặt trong sự hợp nhất với Bổn Tôn nữ Vajravarahi (hai vị này hợp nhất như một Bổn Tôn duy nhất) và bốn dakini bao quanh ở bốn hướng. Thực hành Yidam (Bổn Tôn) là một thực hành Mật thừa vô cùng đặc biệt trong đó ta chuyển hóa kinh nghiệm thông thường, sinh tử của ta về thực tại thành một kinh nghiệm phi thường về trạng thái đích thực của mọi hiện tượng. Trong khi giáo lý ở cấp độ Kinh thừa coi vô minh như nguyên nhân triệt để của hiện hữu sinh tử, giáo lý Mật thừa coi những hình tướng bình thường như nguyên nhân rốt ráo của sinh tử luân hồi. Thực hành Bổn Tôn là một phương pháp sâu xađặc biệt để nhanh chóng chuyển hóa những hình tướng bình thường thành những hình tướng giác ngộ. Chính xác hơn, thực hành này khám phá trạng thái thực sự của các hình tướngbiểu lộ chúng là cái gì luôn luôn thuần tịnh và trống không. Thực hành Bổn Tôn không biến các hình tướng thông thường thành cái chúng không là – thuần tịnh và không có sự hiện hữu bẩm sinh. Đúng hơn, nó khám phá sự thuần tịnh và trống không (tánh Không) đã luôn luôn ở đó nhưng bị ngăn che và không được nhận ra. Do bởi tính chất Mật thừa của những giáo lý này, điều tốt nhất là ta trực tiếp nhận lãnh các chi tiết của những giáo lý này từ một vị Thầy đích thực của dòng truyền thừa. Hy vọng rằng mô tả ngắn gọn về thực hành Bổn Tôn này là tiết mục thứ hai của Con Đường Sâu xa Năm Nhánh của Đại Ấn sẽ khuyến khích người đọc tìm được những giáo lý sâu xa này từ một vị Thầy chân chínhđáng tin cậy của dòng truyền thừa khi đã đến lúc và khi hội đủ các nhân duyên. Kyobpa Rinpoche đã hát:


“Nếu thân thể ta, Vua của các Bổn Tôn
không được củng cố trên Nền tảng Bất biến này,
Đoàn tùy tùng dakini sẽ không tụ hội.
Vì thế, hãy quyết chắc rằng thân bạn là Bổn Tôn.”


Tiết mục thứ ba của Con Đường Năm Nhánh là thực hành Guru-yoga hay thực hành đạt được sự hợp nhất với tâm trí tuệ của vị Thầy (Đạo sư). Có nhiều loại Thầy – cha mẹ ta là những vị Thầy đầu tiên của ta, những người Thầy trong trường tiểu học dạy ta đọc và viết, các Thầy dạy các môn nghệ thuật và khoa học thế tục, các vị Thầy tâm linh ban cho ta các giới nguyện Quy y, các vị Thầy ban cho ta giới nguyện cư sĩ hay tu sĩ, các vị Thầy dạy về Bồ Tát giới, các vị Thầy Kim cương (Kim Cương Sư) ban cho ta các quán đảnh Mật thừa và cuối cùng các vị Thầy giới thiệu cho ta bản tánh của tâm ta. Ở một ý nghĩa nào đó thì vị Thầy được ám chỉ ở đây trong thực hành Guru-yoga là tất cả những vị Thầy trên. Tuy nhiên, đó không phải là một thực hành quá chú trọng đến một cá nhân đặc biệt mà ta gọi là “Thầy” của ta, điều được chú trọng là tâm-trí tuệ căn bản ở trong tất cả những vị Thầy đã dạy dỗ ta. Bằng cách tin tưởng và nương tựa vào tâm-trí tuệ căn bản này mà ta định vị trong các vị Thầy của ta (và đặc biệt là trong vị Thầy đã giới thiệu cho ta bản tánh của tâm), chúng ta cố gắng nhận ra tâm-trí tuệ đó vốn sẵn có trong chúng ta. Đặc biệt là ta cần nương tựa một vị Thầy đích thực và nhiều kinh nghiệmbản thân ngài đã nhận ra bản tánh của tâm và có thể giúp ta cũng nhận ra bản tánh của tâm ta. Thực hành Guru-yoga được tán tụng trong truyền thống như phương pháp sâu xa và trực tiếp nhất để nhanh chóng nhận ra bản tánh của tâm. Nhiều vị Thầy dòng Kagyu đã giảng dạy rằng cách thức nhanh chóng và bảo đảm nhất để nhận ra bản tánh của tâm là một tâm thức tràn đầy lòng sùng mộ. Khi lòng sùng mộ hiện diện thì việc nhận ra bản tánh của tâm không còn xa. Kyobpa Rinpoche đã hát:

“Nếu thân thể ta, Vua của các Bổn Tôn
không được củng cố trên Nền tảng Bất biến này,
Đoàn tùy tùng dakini sẽ không tụ hội.
Vì thế, hãy quyết chắc rằng thân bạn là Bổn Tôn.”

Pháp Guru-yoga (Đạo sư Du già) được thực hành như tiết mục thứ ba của Con Đường Sâu xa Năm Nhánh thì hơi phức tạp và nhiều chi tiết hơn thực hành Guru-yoga được tìm thấy trong các thực hành nội căn bản (ngondro). Đặc biệt là “Guru-yoga Bốn kaya” được thực hành ở đây. Bốn kaya hay “thân’ này ám chỉ Thân Hóa hiện (Hóa Thân, Phạn ngữ: nirmanakaya, Tây Tạng: trul-ku), Thân Hỉ lạc (Báo Thân, Phạn: sambhogakaya, TT: long-ku), Thân Thực tại (Pháp Thân, Phạn: dharmakaya, TT: cho-ku) và Thân Tự Tánh (Phạn: svabhavikakaya, TT: ngowo nyi-ku), là sự bất khả phân của ba thân trước. Trong văn cảnh này, ba thân đầu được coi là chân lý tương đối và thân thứ tư là chân lý tuyệt đối. Trước tiên, một hành giả sẽ thực hành Guru-yoga Hóa Thân, trong đó vị Thầy được quán tưởng trong thân tướng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (bản thân hành giả trong thân tướng bình thường). Kế đó hành giả thiền định về vị Thầy ở cấp độ Thân Hỉ lạc (Báo Thân) như Đức Phật Vairochana (Tỳ Lô Giá Na) (và bản thân hành giả là Bổn Tôn) và thiền định về Thân Thực tại (Pháp Thân) trong thân tướng của Đức Phật Kim Cương Trì. Cuối cùng, khi hành giả đi tới cấp độ Thân Tự tánh của thực hành guru yoga, vị Thầy là đối tượng thiền định mà không có bất kỳ hình tướng, màu sắc, danh hiệu hay hình dạng nào.

Đức Drigung Kyabgon Chetsang Rinpoche hiện tại viết:

“Ở bên ngoài là ba thân của vị Thầy, chân lý tương đối

(Ở bình diện) chân lý tuyệt đối, sự chói lọi tự-sinh của vị Thầy

bản tánh của tâm ta.

Vị Thầy, tâm ta và Phật thì bất khả phân (không thể tách lìa)
Xuất hiện như sự hiển lộ của thân Bản Tánh.”

Khi tâm thức đã trở nên thuần thục nhờ thực hành Guru-yoga, cuối cùng ta đạt được cốt tủy của Con Đường Sâu xa Năm-Nhánh – thực hành thực sự của tự thân Đại Ấn.

Đối với Đại Ấn, một lần nữa, Đức Drigung Kyabgon Chetsang Rinpoche hiện tại viết:

“Hãy duy trì tâm bất sinh tươi trẻ không mê lầm.

Trong trạng thái tự nhiên, không giả tạo này

Hãy hoàn toàn tránh khỏi sự tạo tác của thiền định và thiền giả (người thiền định)

Tâm bình thường, không thiền định, không rối loạn An trụ không luyến bám và không xa lìa

Thoát khỏi hy vọngsợ hãi, bám chấp và buông thả

Chấp nhận (lấy) và vứt bỏ (bỏ), thiền định và sau-thiền định.”

Chúng ta sẽ không thảo luận xa hơn về chủ đề này bởi cách hay nhất là Đại Ấn nên được một vị Thầy bằng xương bằng thịt giảng dạy. Tuy nhiên, có một sự liên kết với một giáo lý đơn giản nhưng sâu xa về Đại Ấn được ban truyền một cách tự nhiên bởi một trong những Đạo sư quan trọng nhất còn sống của dòng Drikung Kagyu hiện nay – Đức Garchen Rinpoche, vị Rinpoche chính yếu của dòng Drikung Kagyu ở miền Đông Tây Tạng.

Cuối cùng, tiết mục Hồi hướng là mục thứ năm của Con Đường Năm Nhánh Sâu xa. Hồi hướng là một trong những đặc điểm của thực hành Phật giáo – một tu tập được thực hành vào lúc kết thúc mọi tu tập dù là Hinayana (Thanh Văn thừa) hay Mahayana (Đại thừa) (ở cả hai cấp độ Kinh điểnMật điển). Bằng cách hồi hướng công đức việc thực hành của ta cho sự giải thoát toàn triệt của chúng sinh khỏi mọi đau khổ và những nguyên nhân của đau khổ, ta bảo đảm rằng thực hành của ta giữ được nguyên vẹn sự thuần tịnh và lợi lạc. Như với hầu hết các thực hành, có những phương diện tương đốituyệt đối (và rất cần phải nhớ rằng ta không đặt nặng phương diện này hơn phương diện kia mà đúng hơn ta thực hành thật hoàn hảo cả hai cấp độ như chúng bất khả phân trong thực tế.) Ở phương diện tuyệt đối của sự Hồi hướngHồi hướng trong văn cảnh Đại Ấn – ta hồi hướng công đức với sự hiểu biết rằng bản thân ta, công đức được hồi hướng và tự thân sự hồi hướng đều là không; tánh Không ba phần.

Con Đường Năm-Nhánh Sâu xa Đại Ấn là một con đường viên mãn để đạt được sự toàn giác trong một đời người. Trong quá khứ, nhiều hành giả đã sử dụng Con Đường này và đã đến bến bờ an bình viên mãn (đáo bỉ ngạn). Hiện nay cũng có nhiều hành giả chân thành của Con Đường này đang thực hành dưới sự dẫn dắt lão luyện và tràn đầy bi mẫn của các vị Thầy dòng truyền thừa Drikung Kagyu. Cũng có nhiều hành giả chân thành của truyền thống Đại Ấn của Đức Gampopa đang đi theo những truyền thống Đại Ấn khác nhau phát triển từ hệ thống Đại Ấn nền tảng của Gampopa. Hơn nữa, ngoài các dòng Đại Ấn Kagyu thuần túy, cũng có dòng thực hành Đại Ấn trong dòng truyền thừa Gelug. Cũng nên nhắc đến sự “hợp nhất” của thực hành Đại Ấn và Đại Viên mãn xuất phát từ một vài Đạo sư của dòng Kagyu và Nyingma.

“Để tất cả chúng sinh từng là những bà mẹ của con
Có thể nhanh chóng thoát khỏi sinh tử
Và có thể đạt được sự toàn giác
Con xin hồi hướng mọi công đức tích tập được bởi
Bản thân con và tất cả chúng sinh và những bậc giác ngộ trong ba thời
Cũng như công đức của Phật-tánh thuần tịnh bẩm sinh.”

Biểu đồ Phát triển sự Trao truyền của Dòng Drikung Kagyu

drikung_kagyu_4

Tải Thanka Dòng Drikung:

http://www.dharma-media.org/media/general/dwnld/thankas_photos.html

HỒI HƯỚNG
Xin hồi hướng công đức này cho sự bất diệt viên mãn của dòng Kagyu vinh quang và xin hồi hướng cho các vị lãnh đạomôn đồ của dòng truyền thừa thành tựu hứa nguyện đưa tất cả chúng sinh đến trạng thái giác ngộ.

BỐN TƯ TƯỞNG VÔ HẠN

Nguyện tất cả các bà mẹ chúng sinh bao la như không gian được hạnh phúc và các nguyên nhân của hạnh phúc. Nguyện họ thoát khỏi đau khổ và những nguyên nhân của đau khổ.
Nguyện họ không bao giờ xa lìa hạnh phúc không buồn đau.
Nguyện họ an trụ trong sự xả bỏ, thoát khỏi tham muốnganh ghét.

Thanh Liên dịch từ nguyên tác “Mahamudra Lineage Drikung Kagyu”

http://www.dharma-media.org/wogmin/mahamudra.html

 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26252)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12594)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29362)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27561)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25766)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 14895)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 16131)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 22574)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14379)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12521)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18799)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14631)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43704)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 47344)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13566)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14466)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 12418)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40211)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43246)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 14317)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14031)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39521)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 13748)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 37138)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 39875)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 13705)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 37047)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 11657)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22408)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12404)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12462)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 12911)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 14682)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 12331)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11865)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11831)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 12293)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 30489)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 31713)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 35207)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27619)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 11346)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31530)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 26857)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 23991)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 30718)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 26920)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 27910)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23090)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23371)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 21417)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 26075)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 12931)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21710)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 14016)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 37788)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 31925)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 28389)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 19503)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7184)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant